xs_os_xxx183

New Member

Download miễn phí Tiểu luận Các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam





Ở nước ta đất nước giành được độc lập, với nền kinh tế lạc hậu, lực lượng sản xuất lạc hậu, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đã nôn nóng chuyển trực tiếp sang chế độ công hữu dưới hai hình thức: sử hữu toàn dân và tập thể, các hình thức này phất huy được sức mạnh trong tình trạng đất nước có chiến tranh. Sau khi giành được độc lập chúng ta vẫn duy trình quan hệ này trong điều kiên lực lượng sản xuất lac hậu, nó trái với quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Để giải quyết những trì trệ lạc hâu và phát triển lực lượng sản xuất để tiên lên chủ nghĩa xã hội. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã tiến hành đổi mới cơ chế cho phù hợp với tình hình mới cho phù hợp.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Lời nói đầu
Tiến lên xây dựng CNXH là mục tiêu của dân tộc ta. Trong quá trình xây dựng chúng ta gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Để có được một xã hội tốt đẹp cần có thời gian xây dựng và phát triển LLSX và QHSX. Do vậy, cần trải qua thời kỳ quá độ để chuẩn bị, thừa hưởng những thành tựu của xã hội trước và định hướng theo quy luật của xã hội mới, nên cùng một lúc xẽ tồn tại nhiều hình thức đan xen. Việt Nam với mục tiêu xây dựng Nhà nước hội của dân do dân và vì dân. Một xã hội không có chế độ người bóc lột, xã hội mà mọi người làm chủ, tự giác lao động và hưởng theo lao động do vậy cần có thời gian dài. Tại Trung Quốc xác định thời gian này là hàng trăm năm.
Trong điều kiện Việt Nam bị tàn phá trong chiến tranh, và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa không còn, cần xây dựng nền kinh tế thị trường, phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh của nó để có được LLSX phát triển. Định hướng của Việt Nam là phát triển nền kinh tế dựa trên thành phần kinh tế Nhà nước làm nền tảng cho các thành phần khác phát triển theo định hướng của nó.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường phải theo định hướng xã hội chủ nghiã Việt Nam đã dành được nhiều thành công, bên cạnh đó vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng cơ chế chính sách, đặc biệt là vấn đề xác định quyền sở hữu ở nước ta. Tồn tại nhiều thành phần trên cở sở nhiều hình thức sở hữu.
Sở hữu ở nước ta vần còn là vấn đề gây tranh cãi, và có nhiều nhà khoa học đang nghiên cứu, và có nhiều tranh luận trong vấn đề sở hữu tư liệu sản luật sở hữu là vấn đề cơ bản của hệ thống quan hệ sản xuất, của một chế độ kinh tế-xã hội. Mỗi chế độ sở hữu thống trị và thích ứng nhất định. Đối với nước ta, thực hiện nhất quán nhiều thành phần theo định hướng XHCN, tất yếu phải xác định được chế độ về thị trường liệu sản xuất phản ánh đúng bản chất kinh tế xã hội. Do đó, xây dựng một chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất phát triển từ thấp lên đến cao theo hướng dần dần làm cho sở hữu XHCN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là một trong những nhiệm vụ then chốt và phải được tiến hành thật tốt trong suốt thời kỳ quá độ.
Hiện nay, đang có những nhận xét đang có những nhận xét, đánh giá phê bình khác nhau về các hình thức sở hữu. Trên thực tế nước ta chưa xác định một các chính xác, và còn nhiều lúng túng trong việc xây dựng chế độ sở hữu mới. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề sở hữu có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về mắt lý luận và thực tiễn để nhanh trónh phát triển kinh tế xã hội tạo điều kiện kết thúc thời kỳ quá độ và có xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện.
I, Lý luận chung về sở hữu
1. Phạm trù sở hữu
Sở hữu là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải vật chất của xã hội. Để sinh sống, tồn tại và sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng ngày càng tăng của mình, con người phải chiếm hữu tự nhiên. Do vậy, chiếm hữu biểu hiện quan hệ giữa người với tự nhiên, là hành vi gắn liền phát triển với tồn tại của con người, là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Khi đó sở hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu trong một hình thái kinh tế-xã hội nhất định, gắn liền với một tổ chức xã hội nhất định. Vì vậy, sở hữu là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu tự nhiên, là phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự thay đổi các hình thái xã hội trong lịch sử.
Con người chiếm hữu vật tự nhiên không chỉ đơn thuần tiêu dùng cá nhân, mà quan trọng hơn là tiêu dùng cho sản xuất, tái sản xuất thêm nhiều của cải để chiếm hữu. Như vậy, một mặt, quan hệ giữa người với người trong sản xuất đặt ra, từ đó mới có quan hệ sinh hoạt. Mặt khác, quan hệ giữa người với người bao giờ cũng phải có vật làm trung gian, môi giới. Vật đó là sản phẩm của tự nhiên hay là thành quả của lao động. Sở hữu là quan hệ kinh tế chứ không phải là quan hệ ý trí của con người trong xã hội. Một cá nhân không thể lấy ý trí của mình để tự khẳng định là người sở hữu mà không quan tâm tới người khác cũng đang muốn sở hữu vật đó. Sở hữu trở thành thực tế khi mối quan hệ giữa người với người, độc lập với quan hệ ý chí.
Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu và được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu.
Chế độ sở hữu là chủ thể của các quan hệ sở hữu thành các quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt thừa kế, chuyển nhượng mua bán...
Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ tài sản theo ý chí của mình.
Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác hay là từ bỏ quyền sở hữu.
Vậy sở hữu được xem xét theo hai khía cạnh:
Thứ nhất, sở hữu được coi là một phạm trù kinh tế, là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu TLSX.
Thứ hai, sở hữu với tính cách là một hình thức pháp lý, là hình thức phản ánh quan hệ sở hữu khách quan vào trong pháp luật.
Trước thời kỳ đổi mới, Việt Nam phát triển chế độ công hữu TLSX, xoá bỏ chế độ tư hữu TLSX để tiến lên CNXH. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta coi sở hữu là mục tiêu, vừa là phương tiện.
2, Sự hình thành, phát triển và biến đổi sở hữu về tư liệu sản xuất.
Sở hữu TLSX là hình thức xã hội của sự chiếm hữu về TLSX, một nội dung chủ yếu trong hệ thống sản xuất. Hình thức mức độ, quy mô, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều đó có nghĩa sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về TLSX là do tính chất và trình độ phát triển của một lực lượng sản xuất tương ứng quyết định. Nói cách khác, sự biến đổi các hình thức sở hữu quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Hình thức sở hữu trải qua các thời kỳ từ sở hữu bộ lạc phát triển tuần tự theo quá trình phát triển của nó qua các thời kỳ, đó là: sở hữu công xã, sở hữu phong kiến. Khi phong kiến tan rã, xuất hiện công trường thủ công tương ứng với nó là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đối vói công truờng thủ công và đối với giai đoạn phát triển công nghiệp không chó chế độ nào khác ngoài ngoài chế độc xây dụng trên cơ sở tư hữu. Khi lực lượng sản xuất phát triển còn ở mức thấp, tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu nhỏ phân tán.
Lực lượng sản xuất từng bước phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung hóa và xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia hay các nông trại lớn ở nông thôn được coi là những biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở m...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top