ncongly

New Member

Download miễn phí Đạo đức học và triết lý nhân sinh





Tự biết mình, hoàn toàn biết rõ bản chất ý thức lẫn vô thức của chính mình, là động cơ tạo nên năng lực, sự tiết độ và thành đạt. Các cá nhân gặp phải khó khăn trong đời phần lớn bởi vì họ không thực sự hiểu biết được sự hiểu được bản chất, khả năng, giới hạn, động cơ-toàn bộ cung bậc tính cách của chính họ. Thực chất, họ cần đến một tấm gương "tâm lý" có khả năng giúp họ nhận ra bản ngã của chính mình, bao gồm toàn bộ ưu khuyết điểm và tiềm năng thực tế của họ.
 
Một người thực sự tự biết mình sẽ đạt được thành công trong cuộc sống, bởi lẽ anh ta biết chính xác những gì nằm trong khả năng của mình cũng như cách thức vận dụng chúng. Ngược lại, một người không tự biết mình sẽ tiếp tục vấp ngã, thậm chí đi đến những huỷ hoại cả cuộc đời.
 
Hầu hết mọi người đều cho rằng tự biết rõ chính mình, rằng “không ai gần gũi ta hơn chính bản thân bản thân ta.” Tuy nhiên, tự tin không có nghĩa là tự biết mình. Thực ra, một người khôn ngoan và từng trải có thể "biết " về bạn nhiều hơn chính bạn đấy! Socrates đã đặt ra câu hỏi: “ Phải chăng bạn cho rằng bạn tự biết mình, đơn giản chỉ vì bạn sở hữu cái tên của mình?”. Ông cũng chỉ ra rằng, nếu chỉ muốn biết về con ngựa, chúng ta phải nắm được tuổi đời , sức vóc và tình trạng sức khoẻ của nó, từ đó mới có thể xác định được mức độ nhanh nhẹn và khả năng làm việc của nó. Nguyên lý này cũng áp dụng đúng với con người để hiểu chính mình, con người trên cõi đời. Quá trình tìm hiểu bản thân đòi hỏi không ít nỗ lực. Nói cho cùng, tự biết mình là mọt lẽ thiện trong đời.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Đạo đức học & triết lý nhân sinh
1. Phạm vi khảo cứu Ý nghĩa triết học của thuật ngữ "Đạo đức học" (Ethics) bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều so với nghĩa hạn hẹp của nó trong câu “đạo làm người trong đời” (man on the street) - đạo đức được xét đến trong khuôn khổ chọn lựa cung cách ứng xử. Khía cạnh được các triết gia quan tâm đến, có ý nghĩa quan trọng hơn thế. Nó khảo sát đến cuộc sống tốt lành - nói cách khác, một cuộc sống đáng sống, cuộc sống toàn mãn. Các triết gia xem vấn đề trọng tâm của Đạo đức cần được khai phá là “the summum bonum” hiểu là “lẽ chí thiện tận mỹ của cuộc đời.” Một khi “lẽ chí thiện tận mỹ” đã thành hình, mọi sự phải-trái, đúng-sai đều có thể được xác định một cách đơn giản. Hành vi được xem là đúng đắn khi nó góp phần nâng cao nhận thức về lẽ chí thiện ấy; trong khi hành vi sai trái lại có ảnh hưởng cản trở khuynh hướng nhận thức ấy. Từ những nhận định trên, người ta có thể kết luận rằng Đạo đức học bao hàm hai lãnh vực, tạm gọi là “cách xử thế đúng mực” và “lẽ chí thiện tận mỹ trong đời”. Qua đó, Đạo đức học có thể được định nghĩa như là bộ môn nghiên cứu đức hạnh và lẽ Chân-Thiện-Mỹ trong cuộc đời. Sau khi xác định thuật ngữ “Đạo đức học” như là môn học nghiên cứu lẽ Chân-Thiện-Mỹ trong đời, chúng ta cũng cần xem xét đến mối liên quan giữa nó với các thuật ngữ khác, thí dụ như đạo đức (moral), trái đạo đức (immoral), trái đạo lý (unethical), phi đạo đức (nonmoral). Giữa đạo (ethics) và đức (morals) có mối quan hệ tương tự như giữa lý thuyết và thực hành vậy. "Đạo" ám chỉ đến lý thuyết về lẽ Chân-Thiện-Mỹ trong đời (đạo học), trong khi "đức" ngụ ý đến việc thực hành đạo lý ấy trong cuộc sống đời thường. Thuật ngữ "đức" có một nghĩa kép. Nghĩa đầu tiên ám chỉ đến khả năng nhận thức và đưa ra các quyết định phù hợp với nguyên tắc đạo lý. Nghĩa thứ hai ám chỉ đến sự thể hiện đạo hạnh qua hành trang trong đời sống thực tế. Với nghĩa thứ nhất của thuật ngữ "đức", chúng ta tìm thấy thuật ngữ tương phản với nó là “vô đức” (hay phi luân-amoral), hàm nghĩa không có khả năng phân định lẽ đúng-sai. Với nghĩa thứ hai của “đức”, chúng ta có thuật ngữ tương phản là “trái đạo đức” (hay trái luân lý-immoral), ám chỉ chó những hành động vi phạm các chuẩn mực đạo đức (thông thường, hai thuật ngữ "phi đạo đức" và "phi luân" có thể được sử dụng thay đổi qua lại cho nhau.) Bên cạnh đó, chúng ta cần phân biệt giữa "đạo đức cá nhân" (personal ethics), nhấn mạnh đến những chuẩn mực đạo đức áp dụng chó các cá nhân, và “đạo đức xã hội” (social ethics) vốn liên quan đến các hệ thống luân lý cộng đồng. Xét luân lý là nền tảng đạo đức của một xã hội hay một quốc gia, đạo đức xã hội có thể được xem là tương đồng với triết học chính trị và xã hội. Ngược lại, đạo đức cá nhân chỉ giới hạn trong thái độ ứng xử của mỗi con người. Cũng cần chú ý rằng, trong phần thảo luận này, Đạo đức học sẽ được diễn giải rộng rãi, không chỉ bó gọn trong khuôn khổ các ý tưởng và hành vi tuân thủ theo một hệ thống quy tắc đạo đức chuẩn mực. Nói cách khác, nó bao hàm có triết lý nhân sinh, nền tảng của “đạo làm người” trong cuộc đời (the way of life). 2. Triết lý của SCORATES Socrates(470-399 trước CN) là một trong những tư tưởng gia Hy Lạp cổ đại đầu tiên kêu gọi giới học giả và các nhà lãnh đạo quốc gia đương thời, những người quá chú tâm đến các công trình nghiên cứu thế giới tự nhiên, nên quan tâm nhiều hơn đến bản chất của con người.
Đối với Socrates, con người là đối tượng đáng được quan tâm hơn cả và bất cứ điều gì ảnh hưởng đến con người đều có tầm quan trọng quyết định. Tri thức về thế giới tự nhiên bên ngoài (vũ trụ học-cosmology), nếu không có ý nghĩa thiết thực đối với cuộc sống con người, chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Mọi tri thức có liên quan đến bản chất và cuộc sống của con người đều đáng được sở hữu và cần được tích luỹ. Hơn nữa, theo cách nói của Socrates, “cuộc sống vô minh (the unexamined life) thì không đáng để sống.” Tự biết mình Tự biết mình, hoàn toàn biết rõ bản chất ý thức lẫn vô thức của chính mình, là động cơ tạo nên năng lực, sự tiết độ và thành đạt. Các cá nhân gặp phải khó khăn trong đời phần lớn bởi vì họ không thực sự hiểu biết được sự hiểu được bản chất, khả năng, giới hạn, động cơ-toàn bộ cung bậc tính cách của chính họ. Thực chất, họ cần đến một tấm gương "tâm lý" có khả năng giúp họ nhận ra bản ngã của chính mình, bao gồm toàn bộ ưu khuyết điểm và tiềm năng thực tế của họ. Một người thực sự tự biết mình sẽ đạt được thành công trong cuộc sống, bởi lẽ anh ta biết chính xác những gì nằm trong khả năng của mình cũng như cách thức vận dụng chúng. Ngược lại, một người không tự biết mình sẽ tiếp tục vấp ngã, thậm chí đi đến những huỷ hoại cả cuộc đời. Hầu hết mọi người đều cho rằng tự biết rõ chính mình, rằng “không ai gần gũi ta hơn chính bản thân bản thân ta.” Tuy nhiên, tự tin không có nghĩa là tự biết mình. Thực ra, một người khôn ngoan và từng trải có thể "biết " về bạn nhiều hơn chính bạn đấy! Socrates đã đặt ra câu hỏi: “ Phải chăng bạn cho rằng bạn tự biết mình, đơn giản chỉ vì bạn sở hữu cái tên của mình?”. Ông cũng chỉ ra rằng, nếu chỉ muốn biết về con ngựa, chúng ta phải nắm được tuổi đời , sức vóc và tình trạng sức khoẻ của nó, từ đó mới có thể xác định được mức độ nhanh nhẹn và khả năng làm việc của nó. Nguyên lý này cũng áp dụng đúng với con người để hiểu chính mình, con người trên cõi đời. Quá trình tìm hiểu bản thân đòi hỏi không ít nỗ lực. Nói cho cùng, tự biết mình là mọt lẽ thiện trong đời. Đức hạnh là tri thức Đối với Socrates, bất cứ ai biết điều gì là đúng đắn tất sẽ thực hiện điều đó. Hành vi sai trái chỉ xuất phát từ sự vô minh. Một người có hành động không đúng bởi vì, và chỉ vì, anh ta không biết cái gì là đúng đắn. Không có một người tỉnh táo và lành mạnh nào lại chủ tâm làm tổn hại bản thân mình. Nếu anh ta thực sự làm một điều như vậy, đơn giản chỉ vì phạm phải sai lầm nào đó trong quá trình hành động, hoàn toàn không phải do cố ý. Không ai chủ định chọn lựa điều sai trái, bởi lẽ hành vị tội lỗi luôn mang đến tai hoạ cho bản thân họ và người khác. Nếu thấu hiểu hậu quả thực sự của trộm cắp, dối trá, lừa đảo, thù hằn và các hành vi tội lỗi khác; nếu biết được chúng sẽ gây tổn hại như thế nào cho bản thân họ, chẳng hạn như sự sa đoạ về mặt tinh thần và sự thoái hoá về mặt nhân cách, chắc chắn con người sẽ tự giác né tránh chúng. Thiếu nhận thức đúng đắn chính là lý do duy nhất khiến một số người không thể kiềm chế được chính mình trước những cám dỗ tội lỗi; bởi lẽ bất cứ người nào biết điều gì là đúng đắn tất sẽ thực hiện điều đó. Đức hạnh là hạnh phúc Theo Socrates,
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ lớp mầm thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học Luận văn Sư phạm 2
D Giáo trình Phương pháp dạy học môn đạo đức ở bậc tiểu học Luận văn Sư phạm 0
D Vấn đề nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở nước ta hiện nay Luận văn Sư phạm 0
D Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường Trung học phổ thông Nguyễn Thái Học, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đo Luận văn Sư phạm 0
D Đăng ký cá nhân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh 2019 Văn hóa, Xã hội 0
D Một vài kinh nghiệm về việc lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Văn hóa, Xã hội 0
G Giáo án Đạo đức lớp 1 - Năm học: 2015 - 2016 - Tuần 19 đến tuần 35 Luận văn Sư phạm 0
T Giáo án Đạo đức lớp 2 - Năm 2015 - 2016 - Tuần 10 - Bài: Chăm chỉ học tập Luận văn Sư phạm 0
N Giáo án Đạo đức lớp 2 - Năm 2015 - 2016 - Tuần 11 - Bài: Thực hành kĩ năng giữa học kì I Luận văn Sư phạm 0
K Giáo án Đạo đức lớp 4, học kì II, năm 2010 Luận văn Sư phạm 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top