Kilydd

New Member

Download miễn phí Bài giảng Sinh lý nội tiết





Cơchếkiểm soát sựphân tiết hormon này chủyếu thông qua sựthay đổi nồng độ
đường huyết, thiết lập nên cơchếthần kinh thểdịch. Khi nồng độ đưòng huyết tăng, kích
thích vào các thụquan hoá học trong thành mạch máu, luồng xung động thần kinh truyền
vềdưới vùng đồi. Từ đây luồng xung động đi xuống hành tuỷ, rồi ra theo dây thần kinh
mê tẩu, có nhánh đi đến đảo tuỵ, gây bài tiết insulin. Khi nồng độ đường huyết giảm cơ
chếsẽngược lại làm giảm tiết insulin. Sựtiết insulin cũng chịu ảnh hưởng của vỏnão.
Người ta đã thành lập được phản xạcó điều kiện giảm đường huyết cụthểlà nhiều lần
kết hợp kích thích âm thanh với tiêm insulin cho chó. Sau đó cho âm thanh kết hợp với
tiêm nước sinh lý cũng thấy lượng đường huyết giảm, tuy nhiên không phải lúc nào cũng
thành công



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

n cho tim. Noradrenaline
ảnh hưởng đến tim không rõ. Đối với mạch máu và huyết áp thì ngược lại noradrenaline
có tác dụng mạnh hơn nhiều so với adrenaline. Chỉ cần tiêm 1/10 vạn mmg noradrenaline
cho 1 kg thể trọng chó, thỏ, người là có thể làm tăng huyết áp.
Cả adrenaline và noradrenaline đều gây co mạch, nhưng adrenaline chỉ gây co mạch
máu da, còn noradrenaline gây co mạch toàn thân làm cho áp suất tâm thu và áp suất tâm
trương đều tăng, sức cản ngoại vi cũng tăng làm huyết áp tăng mạnh. Adrenaline làm
tăng lưu lượng máu tuần hoàn, tăng áp suất tâm thu nhưng không ảnh hưởng đến áp suất
tâm trương.
Đối với cơ trơn nội tạng
Cả hai hormon đều có tác dụng như nhau nhưng noradrenaline thì yếu hơn và cụ thể
như sau:
Làm giãn cơ trơn dạ dày, ruột, túi mật, khí quản nhánh và bóng đái. Làm co hay dãn cơ
trơn tử cung, và tác dụng này khác nhau từng loại động vật và trạng thái sinh lý. Làm co
cơ phản xạ đồng tử mắt gây giãn đồng tử, làm co cơ dựng lông.
Riêng Adrenaline làm co cơ trơn lá lách, gây co nhỏ lá lách (để tống máu vào hệ tuần
hoàn khi cơ thể hoạt động, khi hưng phấn).Tăng bài tiết mồ hôi.
Đối với trao đổi đường
Cả hai hormon đều làm tăng đường huyết, nhưng tác dụng của adrenaline mạnh gấp 20
lần noradrenaline. Hormon nhóm này kích thích phân giải glycogen dự trữ ở gan thành
glucose, làm tăng đường huyết. Ở cơ, nó xúc tác phân giải glycogen thành acid lactic.
Làm tăng cao nồng độ acid lactic huyết. Cơ chế tác động thông qua AMP vòng như đã
nói ở trên.
Đối với máu
Adrenaline làm giảm bạch cầu ái toan. Tác dụng này của noradrenaline không rõ.
Đối với hệ thần kinh trung ương
Adrenaline làm tăng tính hưng phấn của hệ thần kinh trung ương. Nó kích thích sự tăng
tiết ACTH của thuỳ trước tuyến yên. Từ đó kích thích hormon glucocorticoid của vỏ
thượng thận, làm tăng phản ứng phòng vệ của cơ thể. Adrenaline còn tăng khả năng xúc
tác cho phản ứng ôxi hoá - khử trong cơ thể. Tác dụng của adrenaline và noradrenaline
trên các cơ quan nó trên thường không bền vì chúng nhanh chóng bị phá huỷ bởi các
enzyme aminoxidase, tyrosinase.
Trong điều kiện bình thường cắt miền tuỷ thượng thận không làm con vật chết. Nhưng
cho động vật thí nghiệm vào phòng lạnh mà cắt thì con vật chết ngay vì nó không còn
khả năng phản ứng đề kháng tích cực nữa.
Điều hoà hoạt động miền tuỷ thượng thận
Hoạt động của miền tuỷ thượng thận chịu sự chi phối của thần kinh giao cảm. Những
kích thích đau, lạnh, nóng, xuất huyết, vận động, thay đổi môi trường đột ngột đều tác
dụng lên các thụ quan tương ứng, theo đường cảm giác vào thần kinh trung ương (tuỷ
sống, hành tuỷ, vùng dưới đồi, vỏ não) lệnh truyền ra theo dây thần kinh nội tạng (sợi
giao cảm trước hạch) đến kích thích miền tuỷ thượng thận tiết adrenaline và
noradrenaline. Những thay đổi về nội môi như giảm huyết áp, hạ đường huyết cũng kích
thích lên các thụ quan áp lực và hoá học trong thành mạch máu. Xung động thần kinh
truyền vào các trung ương thần kinh nói trên, lệnh truyền ra theo đường giao cảm đến
kich thích miền tuỷ thượng thận tiết ra hormon.
2). Chức năng miền vỏ
Miền vỏ tuyến thượng thận gồm 3 lớp đó là lớp cầu, lớp dậu và lớp lưới. Mỗi lớp tiết
ra một loại hormon khác nhau và chúng có tác dụng khác nhau. Thần kinh chi phối miền
vỏ cũng phát ra từ dây tạng lớn và tập trung chủ yếu ở lớp cầu, còn lớp dậu và lớp lưới
chịu ảnh hưởng chủ yếu từ hệ thống mạch quản của tuyến. Hormon miền thượng thận
thuộc loại steroid có bản chất lipid. Hormon thuộc lớp cầu có tên chung là mineral
corticoid gồm hai hormon là aldosterone và desoxy-corticosterone (DOC).
Tác dụng sinh lý của hai hormon này tham gia điều hoà trao đổi muối, nước bằng
cách xúc tác cho quá trình tái hấp thu chủ động natri ở ống thận nhỏ (kèm theo clorua và
nước) và tăng cường bài tiết kali.Tác dụng của aldosterone mạnh gấp 30 – 120 lần desoxy
corticosterone. Do giữ natri kèm theo giữ clorua và nước, nên nếu nó được tiết nhiều sẽ
gây hiệu ứng tích nước gian bào và có thể gây phù thũng. Mineral corticoid còn xúc tiến
sự hấp thu natri ở dạ dày và ruột
Aldosterone cũng có tác dụng lên chuyển hoá đường nhưng hiệu quả không bằng
hormon nhóm glucocorticoid của lớp dậu. Trong các bệnh gây phù thũng như các bệnh
về gan, tim, thận thì lượng aldosterone trong máu tăng cao.
Hormone thuộc lớp dậu
Hormon thuộc lớp dậu có tên chung là glucorticoid gồm 3 hormon quan trọng là
cortisol, corticosterone và cortisone. Trong đó cortisol có hoạt tính mạnh nhất. Tác dụng
sinh lý của nhóm hormon thể hiện ở các khía cạnh sau.
Đối với trao đổi chất
- Tác dụng lên trao đổi đường
Hormon thúc đẩy sự tạo hợp glucose và glycogen, làm tăng đường huyết, nhưng không
phải từ glucid mà từ sự phân giải protein và lipid. Hormon thúc đẩy dị hoá protein, lipid
đến acid axetic, rồi thông qua cầu axetyl-coA mà đi ngược con đường đường phân yếm
khí để tạo hợp glycogen và glucose. Tiêm nhiều cortisol gây hiệu ứng tăng đường huyết
và đường niệu là do cơ chế trên gây ra. Nhóm hormon này xét theo khía cạnh chức năng
thì nó đối kháng với sự xuất tiết insulin bằng cách ức chế tế bào β của đảo tuỵ nên hiệu
ứng đường huyết và đường niệu càng trầm trọng. Tác dụng tăng đường huyết cuả nhóm
hormon này còn thông qua cơ chế hoạt hoá enzyme phosphatase kiềm ở thành ruột để
làm tăng hấp thu glucose qua thành ruột; đồng thời làm giảm sự sử dụng glucose ở gan và
cơ. Ức chế sự chuyển acid pyruvic vào chu trình Kreb và ức chế cả quá trình đường phân
yếm khí. Hormon còn ức chế hoạt tính của enzyme hexokinase. Nếu tiêm insulin thì loại
trừ được tác dụng và con đường đường phân sử dụng glucose vẫn tiếp tục.
- Tác dụng lên trao đổi protein
Glucocorticoid thúc đẩy sự phân giải protein để lấy nguyên liệu tạo hợp glycogen và
glucose thông qua cơ chế hoạt hoá các enzyme tách và chuyển amin desaminase và
transaminase, tạo thành các xeto acid để từ đó biến thành glucogen và glucose.Song nếu
dùng liều thấp thì glucocorticoid lại xúc tác cho sự tổng hợp protein. Người ta thấy rằng
sau khi cắt bỏ tuyến thượng thận thì sự kết hợp S35 cystein vào protein bị giảm xuống.
Nếu tiêm glucocorticoid thì khôi phục lại sự kếp hợp amino acid đó vào protein mô biểu
bì da lông. Cắc bỏ tuyến thượng thận còn gây giảm sự kết hợp N-15 của glyxin vào
protein gan và C-14 của lecine vào protein mô cơ.
- Tác dụng lên trao đổi lipid
Với liều vừa phải, glucocorticoid ức chế sự tích luỹ mỡ, tăng cường sự phân giải axit
béo mạch dài làm giải phóng nhiều axit béo tự do trong máu. Một điều đáng chú ý là
hormon thúc đẩy tạo hợp glucogen nhưng không làm chuyển hoá glucogen thành lipid.
Tuy nhiên trong một số trường hợp khi tiêm liều cao và kéo dài hormon có tác dụng
thúc đẩy sự hấp thụ axit béo bậc cao, kể cả những hạt mỡ nhũ tương qua thành ống tiêu
hoá, kích thích đồng hoá lipid, gây hôị chứng béo phì vì cortisol.
-Tác dụng đối với thận
Dùng nhiều glucocorticoid có thể gây tích natri và nước sinh phù thũng, vì vậy khi
dùng cortisol ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top