Download miễn phí Lịch sử phần cứng máy tính





Việc tái tạo chiếc Máy sai phânII, một thiết kế cũ hơn, nhiều hạn chế
hơn, được tiến hành từ năm 1991 tại Bảo tàng Khoa học Luân Đôn. V ới
một ít thay đổi không đáng kể, nó hoạt động đúng như thiết kế của
Babbage và chứng tỏ rằng lý thuyết của Babbage là đúng đắn. Bảo tàng
đã sử dụng những công cụ máy móc do máy tính điều hành để tạo nên
những bộ phận cần thiết, theo khả năng mà một nhà cơ khí vào thời kỳ đó
có thể làm được. Thất bại của Babbage trong việc hoàn thành chiếc máy
trư ớc hết có thể do những khó khăn không chỉ liên quan đến chính trị và
tài chính, mà còn do tham vọng của ông muốn phát triển một chiếc máy
ngày càng tinh vi[24]. Tiếp sau bước chân của Babbage, dù không ý thức
được công việc trước đó của ông, là Percy Ludgate, một nhân viên kế
toán đến từ Dublin, Ireland. Ông thiết kế độc lập một máy tính cơ khí lập
trình được, điều mà ông đã mô tả trong một tác phẩm phát hành vào năm
1909



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Lịch sử phần cứng máy tính(phần I)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Phần cứng máy tính là nền tảng cho xử lý thông tin (sơ đồ khối).
Lịch sử phần cứng máy tính bao quát lịch sử của phần cứng máy tính,
kiến trúc của nó, và những ảnh hưởng đối với phần mềm. Trước đây việc
tính toán do con người đảm nhiệm, những người này được gọi là
computer (người tính toán)[1].
Kiến trúc von Neumann đã thống nhất các hiện thực phần cứng máy tính
hiện nay của chúng ta[2]. Phần tử chủ yếu của phần cứng máy tính là ngõ
nhập (input)[3], ngõ xuất (output)[4], điều khiển[5] và đường dữ liệu (hai cái
này cùng với nhau tạo thành một bộ xử lý)[6], và bộ nhớ[7]. Chúng đã trải
qua những quá trình chọn lọc và phát triển liên tục trong suốt lịch sử phần
cứng máy tính. Bắt đầu bằng các cơ chế cơ khí, phần cứng từ khi đó đã
bắt đầu sử dụng tín hiệu tương tự để tính toán, bao gồm nước và thậm chí
cả không khí làm số lượng tương tự: máy tính tương tự đã sử dụng chiều
dài, áp suất, điện thế, và dòng điện để thay mặt cho kết quả tính toán[8].
Cuối cùng điện thế hay dòng điện đã được chuẩn hóa và máy tính kỹ
thuật số đã được phát triển qua một thời kỳ cách mạng có từ cách đây cả
thế kỷ. Các phần tử tính toán kỹ thuật số bao gồm từ các bánh xe cơ khí,
đến rờ-le cơ điện, ống chân không, bóng bán dẫn (transistor), và cuối
cùng là mạch tích hợp, tất cả chúng ngày nay đều được hiện thực theo
kiến trúc von Neumann[9].
Vì máy tính số phụ thuộc vào bộ lưu trữ số, và có xu hướng bị giới hạn về
kích thước và tốc độ bộ nhớ, lịch sử của bộ lưu trữ dữ liệu máy tính gắn
liền với sự phát triển của máy vi tính. Cấp độ phát triển của phần cứng
máy tính đã thúc đẩy việc sử dụng công nghệ trên toàn thế giới. Thậm chí
khi hiệu suất đã tăng lên, giá cả lại giảm xuống[10], cho đến khi máy tính
trở thành tiện nghi, tiếp cận đến ngày càng nhiều các lĩnh vực[11] của con
người trên thế giới. Phần cứng máy tính do đó trở thành một nền tảng để
sử dụng hơn là để tính toán, như tự động hóa, thông tin liên lạc, điều
khiển, giải trí, và giáo dục. Mỗi lĩnh vực đến phiên nó lại có những yêu
cầu riêng cho phần cứng, rồi phần cứng sẽ tiếp tục phát triển để đáp ứng
các yêu cầu đó[12].
Những máy tính toán đầu tiên
Bài chi tiết: calculator
Bàn tính (con số hiển thị trên bàn tính này là 6.302.715.408)
Nhiều thiết bị đã được dùng để trợ giúp trong việc tính toán từ cách đây
hàng ngàn năm, sử dụng tương ứng một-một với ngón tay của chúng
ta[13]. Thiết bị đếm sớm nhất có thể là que tính. Sau đó những thiết bị hỗ
trợ việc lưu giữ số liệu tại vùng Trăng lưỡi liềm màu mỡ bao gồm các
hình thù đất sét, thay mặt cho số đếm các vật, có thể là thú nuôi hay thóc
lúa, được dán kín trong thùng chứa[14]. Bàn tính được dùng trong công
việc liên quan đến con số. Bàn tính La Mã được dùng tại Babylonia từ
năm 2400 TCN. Kể từ đó, nhiều loại bàn hay thẻ dùng để đếm đã được
phát minh ra. Trong phòng tính toán vào thời trung cổ, một miếng vải để
tính toán được đặt trên bàn, và các vật ghi di chuyển xung quanh theo một
quy luật nào đó, như một cách hỗ trợ tính tổng tiền[15].
Một số máy tính tương tự được xây dựng vào thời cổ đại và trung cổ để
thực hiện các phép tính thiên văn. Nó bao gồm máy Antikythera và dụng
cụ đo độ cao thiên thể của Hy Lạp cổ đại (khoảng 150-100 TCN), và nói
chung được xem là những máy tính cơ khí đầu tiên[16]. Những dạng thiết
bị cơ khí đầu tiên được dùng để thực hiện một số loại phép tính bao gồm
bình đồ địa cầu; một số phát minh của Abū Rayhān al-Bīrūnī (khoảng
1000 CN); Equatorium của Abū Ishāq Ibrāhīm al-Zarqālī (khoảng 1015
CN); máy tính thiên văn theo kỹ thuật tương tự của những nhà thiên văn
và kỹ sư Hồi giáo thời Trung cổ, và Tháp đồng hồ thiên văn của Tô Tụng
trong thời kỳ nhà Tống.
John Napier (1550–1617) đã ghi rằng phép nhân và phép chia các số có
thể thực hiện lần lượt bằng phép cộng hay trừ lô-ga-rít của các số đó.
Khi tạo ra bảng lô-ga-rít đầu tiên Napier cần thực hiện nhiều phép
nhân, và nhờ vào điểm này mà ông thiết kế ra Napier's bones, một thiết bị
giống như bảng tính được dùng để nhân và chia[17]. Vì số thực có thể
được biểu diễn bằng chiều dài hay khoảng cách trên một đường thẳng,
thước loga được phát minh vào những năm 1620 cho phép thực hiện phép
nhân và chia nhanh hơn rất nhiều so với trước đó[18]. Thước loga được
nhiều thế hệ kỹ sư và những công nhân chuyên nghiệp sử dụng toán
nhiều sử dụng từ lúc đó, cho đến khi có phát minh máy tính bỏ túi. Các
kỹ sư trong chương trình Apllo với mục tiêu gửi con người lên mặt trăng
đã thực hiện nhiều phép tính toán trên thước loga, với độ chính xác đến
ba hay bốn con số.
Một máy tính cơ khí vào năm 1914. Để ý cánh tay được dùng để xoay
bánh xe.
Vào năm 1623, Wilhelm Schickard đã tạo ra chiếc máy tính cơ khí kỹ
thuật số đầu tiên và do đó trở thành cha đẻ của kỷ nguyên máy tính[19]. Vì
chiếc máy của ông sử dụng nhiều kỹ thuật như răng và bánh răng được
phát triển đầu tiên dành cho đồng hồ, nó còn có tên 'đồng hồ tính toán'.
Nó được sử dụng vào thực tế nhờ người bạn của ông, Johannes Kepler,
người đã tạo ra cuộc cách mạng về thiên văn học. Máy tính nguyên thủy
của Pascal (1640) hiện còn được bảo quản tại Bảo thàng Zwinger. Tiếp
sau đó là những bộ máy do Blaise Pascal (Pascaline, 1642) và Gottfried
Wilhelm von Leibniz (1671) sáng chế.
 "Thật là không đáng khi những con người xuất sắc lại mất hàng
giờ để làm công việc tính toán như nô lệ trong khi nó có thể được
giao cho bất cứ ai nếu máy móc được sử dụng." —Leibniz
Khoảng năm 1820, Charles Xavier Thomas đã tạo thành công chiếc máy
tính cơ học được sản xuất hàng loạt đầu tiên, Máy kế toán Thomas, nó có
thể cộng, trừ, nhân, và chia. Nó dựa chủ yếu vào công trình của Leibniz.
Những chiếc máy tính cơ học, như máy cộng trừ cơ số 10, máy đếm,
Monroe, Curta và Addo-X vẫn còn được sử dụng cho đến những năm
1970.
Leibniz cũng đã mô tả hệ thống số nhị phân,[20] một thành phần cốt lõi
của mọi máy tính hiện đại. Tuy nhiên, cho đến những năm 1940, nhiều
thiết kế sau đó (bao gồm những chiếc máy của Charles Babbage vào
những năm 1800 và thậm chí ENIAC năm 1945) vẫn dựa trên hệ thập
phân[21]; Máy đếm vòng của ENIAC đã vượt qua phép tính của các bánh
xe số trong máy cộng cơ học.
1801: công nghệ thẻ đục lỗ
Bài chi tiết: máy phân tích
Xem thêm: piano luận lý
Từ năm 1725 Basile Bouchon đã dùng một cuộn giấy được đục lỗ trong
một máy dệt để tạo những kiểu mẫu có thể dùng đi dùng lại trên vải, và
vào năm 1726 đồng nghiệp của ông là Jean-Baptiste Falcon đã phát triển
thiết kế bằng cách sử dụng những thẻ giấy đục lỗ gắn với nhau để thuận
tiện trong việc tra lắp và thay đổi chương trình. Máy dệt Bouchon-Falcon
là bán tự động và cần p...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top