Misu

New Member

Download miễn phí Luận văn Khuynh hướng phê bình Mác-Xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (1900 - 1945)





MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa . 1
Lời Thank . 2
Mục lục. 3
DẪN LUẬN . 5
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH MÁC-XÍT VÀ PHÊ BÌNH
MÁC-XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
1.1. Tổng quan về phê bình Mác-xít . 18
1.1.1. Khái niệm phê bình Mác-xít . 18
1.1.2. Những nguyên tắc cơbản. 20
1.1.2.1. Về nguồn gốc và bản chất của vănhọc. 20
1.1.2.2. Về chức năng của văn học và vai trò củavăn nghệ sĩ . 25
1.1.2.3. Về thế giới quan và phương pháp sáng tác . 28
1.1.3. Sơ lược về quá trình hìnhthành và phát triển của phê bình
Mác-xít trên thế giới . 36
1.2. Khái quát về phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX . 51
1.2.1. Cơ sở xã hội - lịchsử . 51
1.2.2. Quá trình hình thành và pháttriển . 54
Chương 2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KHUYNH HƯỚNG PHÊ BÌNH
MÁC-XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
2.1. Các đặc điểm về nguyên tắc thẩm mỹ . 66
2.1.1. Khái niệm văn học .67
2.1.2. Mối quan hệ nhà văn - tác phẩm- ngườiđọc . 70
2.1.3. Trách nhiệm của nhà văn,phương pháp sáng tác và tự do
trong nghệ thuật . 78
2.1.4. Nội dung và hình thức. 88
2.1.5. Giá trị văn học . 99
2.2. Các đặc điểm về phương pháp phêbình . 107
2.2.1. Phương pháp lập luận . 108
2.2.1.1. Phương pháp xây dựng hệ thống mở . 108
2.2.1.2. Phương pháp so sánh – đối chứng khách quan . 111
2.2.1.3. Phương pháp giải thích xây dựng khái niệm. 113
2.2.2. Ngôn ngữ phê bình . 114
2.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại. 115
2.2.2.2. Ngôn ngữ nhiều giọng điệu .116
Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA PHÊ BÌNH MÁC-XÍT NỬA ĐẦU
THẾ KỈ XX
3.1. Những đóng góp chung . 120
3.1.1. Xây dựng thành công nền tảng lí luận văn học hiện
đại đầu tiên ở Việt Nam . 120
3.1.2. Khơi nguồn sáng tạo, đưa văn học trở về phục vụ đời
sống nhân dân và thực tiễn cách mạng . 121
3.1.3. Kiến tạo cơ sở phương pháp khoahọc cho phê bình hiện đại . 123
3.1.4. Một nền phê bình giàu tínhvăn hóa, dân chủ và “nhiệt
tình trí tuệ” không ngừng tự vận động điều chỉnh . 124
3.2. Các nhà phê bình Mác-xít tiêu biểu nửa đầuthế kỉ XX . 125
3.2.1. Hải Triều (1908 - 1954) . 125
3.2.2. Đặng Thai Mai (1902 - 1984) . 131
3.3. Những hạn chế trong phê bình Mác-xít nửa đầuthế kỉ XX . 137
3.3.1. Đơn giản hoá phản ánh luận và nhận thức luận Mác-xít . 137
3.3.2. Hình thức nghệ thuật, giá trị thẩm mỹ và văn bản ngôn
từ tác phẩm chưa đượcquan tâm đúng mức . 139
3.3.3. Vấn đề vai trò của chủ thể sáng tạo còn bỏ ngỏ . 141
3.3.4. Tính thẩm mỹ trong ngôn ngữ phê bình còn hạn chế . 142
KẾT LUẬN . 144
TÀI LIỆU THAMKHẢO . 149
PHỤ LỤC . 159



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

t” [166, tr.567].
“Nghệ thuật là phản ánh của một xã hội. Nó còn là con đẻ của sức sinh sản”
[45, tr.236].
Nhìn chung, luận điểm chính trong các bài viết khác cũng không có gì khác hơn
việc khẳng định và luận chứng cho quan điểm của Hải Triều. Cách nói “sức sinh
sản” – cái được phản ánh – của Trần Đình Long có thể hiểu là sức mạnh của qui
luật vận động tiến hoá trong thế giới khách quan. Hồ Xanh bổ sung một điểm mới:
văn học phải thoát li tinh thần luân lí – cũng nhằm mục đích nhấn mạnh khuynh
hướng văn học tả thực, gắn liền với dân sinh trên phương diện giải phóng văn học
khỏi qui phạm “văn sĩ tải đạo” của nền nghệ thuật phong kiến.
Mặt khác, theo quan điểm Mác-xít, tính xã hội trong mối quan hệ giữa nhà văn
và tác phẩm còn thể hiện ở mục đích và cứu cánh của văn học nghệ thuật như Hải
Triều đã xác định. Phê bình Mác-xít đề cao vai trò của tầng lớp văn nghệ sĩ cũng
như sứ mệnh cao quí của văn chương nghệ thuật nói chung nhưng tiêu chí của nó
không phải là tính độc đáo, tính sáng tạo của hình tượng thẩm mĩ hay văn phong bộc
lộ thiên tài của người sáng tạo mà chính là ở hiệu quả tác động đến người đọc tương
ứng với yêu cầu của thực tiễn xã hội và thời đại. Phê bình Mác-xít không coi hiệu
quả, vai trò xã hội của văn chương nghệ thuật là một “sự tình cờ” mà lấy nó
70
làm mục đích và thước đo giá trị tác phẩm. Từ khi ra đời, tác phẩm văn học có
một sự sống độc lập tương đối đối với nhà văn nhưng sự sống còn của nó hoàn toàn
thuộc về “quyền phán đoán” của xã hội thông qua vai trò của người đọc:
“Có khi tác giả viết cuốn sách vẫn không để ý đến cuốn sách mình đối với sự
thay đổi của xã hội về sau, nhưng đến khi cuốn sách ấy ra đời, công chúng hoan
nghênh, lại theo những tư tưởng trong sách. Như thế thì riêng phần tác giả đối với
sách đánh giá là một sự tình cờ, nhưng sách đối với quần chúng và cái ảnh hưởng của nó
trong xã hội không phải là tình cờ được. Vì cuốn sách khi tiếp xúc với xã hội là
thuộc về quyền phán đoán suy diễn của xã hội, tác giả chỉ dự một phần thôi” [6,
tr.74].
Mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và xã hội cũng là một quan hệ biện chứng:
“Văn chương chịu ảnh hưởng của xã hội nhưng xã hội không phải là không thụ
ảnh hưởng của văn chương” [125, tr.482].
Chống lại khuynh hướng chú trọng vai trò thưởng thức của “văn chương chơi”,
Hải Triều cùng các đồng chí của ông chủ trương đưa văn học trở về cuộc sống và
trao nó tận tay người đọc với tư cách chủ thể tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật và
chủ nhân của một xã hội mới. Do vậy, văn học nghệ thuật cũng nhận lấy cho mình
một sứ mệnh vô cùng to lớn, nặng nề, đối với toàn thể nhân dân và mục tiêu tiến bộ
của lịch sử nhân loại. Cụ thể hơn, văn học thực hiện vai trò của nó đối với cuộc cách
mạng vô sản và công cuộc kiến thiết xã hội XHCN bằng cách giác ngộ nhận thức,
tư tưởng, tình cảm thôi thúc con người đi đến hành động cách mạng. Sức mạnh của
cái đẹp trong nghệ thuật văn chương trở thành phương tiện vũ khí:
“Văn học cố hết sức dùng cái mãnh lực của lời nói mỹ thuật để tham gia vào sự
kiến thiết XHCN, giúp ích cho phục hưng nhân loại” [128, tr.494].
Với mục tiêu là:
“Bao giờ người ta cũng căn cứ vào đa số, vào hạng người nào mà bị áp bức, bị
cực khổ nhất trong xã hội đó; người ta phải nhắm ngay vào tình cảm, nguyện vọng,
71
địa vị của họ mà thay đổi mục đích nghệ thuật hay tìm kiếm phương pháp gì khác để
nâng cao trình độ của họ lên. Vì thế mà phái nghệ thuật vị nhân sinh muốn dùng
nghệ thuật để phụng sự cho giai cấp hèn yếu, để giác ngộ họ, để khuyến khích họ,
làm cho họ có ý cương quyết hành động, mà chiến đấu với con ma áp bách, cùng kiệt
nàn …” [116, tr.534].
Gánh vác trọng trách ấy trên vai, “nghệ thuật không còn là một thứ đồ chơi để
làm thỏa mãn cuồng vọng của bọn Tư sản, mà là một lực lượng để nâng cao trình độ
sinh hoạt của cả một giai cấp cần lao để kiến thiết XHCN” [95, tr.237]. Mà “phải là
một trợ lực để đưa nhân loại đến cõi đại đồng, phải là một yếu tố cho bước tiến hoá
xã hội” [97, tr.241].
Tóm lại, về mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - người đọc, Hải Triều và những
người đồng quan điểm với ông nhấn mạnh vai trò của yếu tố xã hội, yếu tố khách
thể trong quá trình phản ánh và vai trò của người đọc đối với quá trình sáng tác
và tiếp nhận. Xây dựng qui luật phản ánh nghệ thuật, nhóm Hải Triều có cái nhìn
tiến bộ hơn khuynh hướng hiện thực phê phán ở chỗ ông nhận ra qui luật vận động
của văn học, nguyên tắc phản ánh hiện thực trong sự phát triển và nội dung tình
cảm, tâm lí giai cấp của nhà văn trong phản ánh nghệ thuật. Phản ánh nghệ thuật
không phải là sự phản ánh siêu hình và máy móc. “Những ý kiến của Hải Triều nói
chung là chính xác, đã có những đóng góp quí báu vào việc đấu tranh để xây dựng
nền lí luận văn nghệ cách mạng” [18, tr.286] nhưng nó cũng không tránh khỏi
những hạn chế do điều kiện lịch sử - văn hóa - xã hội cụ thể lúc bấy giờ. Quan niệm
của ông về quá trình phản ánh nghệ thuật nói chung vẫn còn là sự phản ánh đơn
giản và trực tiếp, đồng nhất thế giới nghệ thuật – cái được phản ánh với thế giới
khách quan – cái phản ánh (những bài phê bình tác giả - tác phẩm của ông thể hiện
rõ điều này) mà chưa thấy được sự khúc xạ của nó bởi các yếu tố nghệ thuật và vai
trò của chủ thể sáng tạo. Đến Văn học khái luận, Đặng Thai Mai đã có một số bổ
sung cần thiết cho vấn đề này.
72
Theo nhà phê bình Đặng Thai Mai, yếu tố khách thể trong phản ánh nghệ thuật
không phải là hình ảnh trực tiếp hay một lát cắt siêu hình của hiện thực bởi sự chi
phối của ba qui luật cơ bản của một hình thái ý thức: luật biến thiên, luật đoàn kết
và luật kế thừa; nhưng quan trọng hơn nữa là sự chi phối của yếu tố tưởng tượng
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Là một hình thái ý thức xã hội, văn học “có thể
trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến đời sống xã hội”; nhưng đồng thời văn học
cũng chịu tác động qua lại với các bộ môn văn hóa khác bởi chúng đều gây dựng
trên nền tảng sinh hoạt kinh tế của xã hội. Vì vậy, phạm vi phản ánh của văn học,
nằm trong mối quan hệ giao thoa sâu rộng với nhiều bộ phận khác thuộc kiến trúc
thượng tầng trong toàn bộ đời sống con người chứ không chỉ phản ánh cơ sở hạ tầng
kinh tế xã hội. Mặt khác, “trên tràng kì lịch sử, ngôn ngữ, văn tự, tâm duy, tư duy
của nhân loại không phải là những thực thể cố định vĩnh viễn không di dịch” mà
ngược lại, nó “luôn luôn biến hoá trong không gian và thời gian”. Vì vậy, “dưới qui
luật biến hoá văn học vẫn sẵn có một động tính rất nhạy” [14, tr.104]. Hơn nữa, “ghi
nhớ và lợi dụng kinh nghiệm các lớp người ngày trước là một năng lực quí hoá của
loài người”, do đó “C
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top