Download miễn phí Đề tài Lý luận về lạm phát và vận dụng lý luận đó ở Việt Nam





MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT. 2
1.1. Khái niệm, đo lường và phân loại lạm phát. 2
1.1.1. C¸c kh¸i niÖm: 2
1.1.2. Đo lường lạm phát. 3
1.1.3. Ph©n lo¹i l¹m ph¸t: 3
1.2. Nguyên nhân lạm phát 4
1.2.1.Lạm phát theo thuyết Keynes( lạm phát cầu kéo) 4
1.2.2. Lạm phát do chi phí dẩy 5
1.2.3. Lạm phát ỳ 6
1.2.4. Tiền tệ và lạm phát 6
1.3. Những tổn thất xã hội của lạm phát. 7
1.3.1. Đối với lạm phát được dự tính trước. 7
1.3.2. Đối với lạm phát không dự tính trước. 8
2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM. 8
3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM. 11
3.1. Các biện pháp kinh tế chung 11
3.2. Củng cố các yếu tố tài chính 12
3.3. Điều chỉnh yếu tố tiền tệ. 12
3.4. Nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng. 12
3.5. Kiểm soát giá cả và điều chỉnh tiền lương 13
3.6. Hoàn thiện cơ chế, luật pháp. 13
3.7. Gây dựng lòng tin vào đồng nội tệ. 14
3.8. Đấu tranh với những thành phần kinh tế “ngầm”. 14
KÕt luËn 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

giá cả của hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát, thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua được ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói cách khác, khi có lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định.
Một điều quan trọng nữa mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ là sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như giá cả chỉ đột ngột tăng lên rồi lại trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền kinh tế và do đó có thể gây ra lạm phát.
1.1.2. Đo lường lạm phát.
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kì nhất định, các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kì t được tính theo công thức sau:
Πt =(Pt – Pt-1 / Pt-1) * 100%
Trong đó:
Πt : tỷ lệ lạm phát của thời kì t (có thể là tháng, quý hay năm).
Pt : Mức giá của thời kì t
Pt-1 : Mức giá của thời kì trước đó
Người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống thì chỉ số giá tiêu dùng thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI.
1.1.3. Ph©n lo¹i l¹m ph¸t:
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hay theo mức độ của tỷ lệ lạm phát.
- Phân loại lạm phát theo tỷ lệ lạm phát:
Theo tiêu thức này, các nhà kinh tế thường phân biệt 3 loại lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
- Lạm phát vừa phải: Được đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể đoán trước được. Đối với cá nước đang phát triển lạm phát một con số thường được coi là lạm phát vừa phải. Đó là mức lạm phát bình thường mà nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
- Lạm phát phi mã: Lạm phát trong phạm vi hai hay ba con số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
- Siêu lạm phát: là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế học người Mĩ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên. Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung tiền, điều này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Hơn nữa, lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm so với GDP mà điều này đến lượt nó làm tăng thâm hụt ngân sách và dẫn đến lạm phát cao hơn.
-Phân loại lạm phát theo tính chất:
Theo tính chất của lạm phát người ta phân biệt được lạm phát được dự tính trước và lạm phát không được dự tính trước.
-Lạm phát được dự tính trước: là lạm phát xảy ra đúng như dự tính từ trước của các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản vay cũng như hợp đồng về cá biến danh nghĩa đã được điều chỉnh phù hợp với lạm phát.
-Lạm phát không được dự tính trước: là lạm phát xảy ra bất ngờ ngoài dự tính từ trước của các tác nhân kinh tế. Lạm phát bất ngờ phân phối lại của cải và thu nhập giữa các thành viên trong xã hội không theo nỗ lực, cống hiến và nhu cầu của họ.
1.2. Nguyên nhân lạm phát
1.2.1. Lạm phát theo thuyết Keynes( lạm phát cầu kéo)
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hay vượt mức tự nhiên. Theo lí thuyết này, nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư cà do đó đẩy giá cả tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ từ sự gia tăng quá mức trong những nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hay các chương trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ tỉ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu trì trệ và luồng vốn nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực rơi vào một cuộc suy thoái.
1.2.2. Lạm phát do chi phí dẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo hướng bất lợi: sản lượng giảm, thất nghiệp và lạm phát tăng.
Ba loại chi phí có thể gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công doàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng tiền tệ.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng vì chúng tác động trực tiếp đến giá cả hàng hóa. Nếu so sánh với các nước phát triển là những nước có tỉ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có thể nhận định rằng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát.
Đối với nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu, cấu kiện cần thiết mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá cả của chúng (có thế do giá quốc tế thay đổi hay tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng qu...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top