be.always

New Member

Download miễn phí Tiểu luận Logic và tiếng việt, những câu chuyện trí tuệ về lập luận logic





MỤC LỤC
 
I. Khái lược logic học 0
1. Logic học 0
2. Logic và ngôn ngữ 1
II. Lập luận logic 3
1. Lập luận logic 3
2. Lập luận trong những câu chuyện trí tuệ người xưa 4
2.1. Lập luận theo logic 4
2.2. Lập luận theo logic tự nhiên 5
2.3. Sự so sánh trong lập luận 7
2.4. Lí lẽ nguỵ biện 8
III. Kết luận 11
Tài liệu tham khảo 11
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Logic và tiếng việt, những câu chuyện trí tuệ về lập luận logic
I. Khái lược logic học
1. Logic học
Logic học đã phát triển từ rất sớm ở các nước Hi Lạp, Trung Quốc và ấn Độ, trong đó nổi bật nhất là ở Hi Lạp. Logic học được hình thành từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên với tên tuổi của nhà triết học vĩ đại Aristote (384-322tcn), ông là người sáng lập ra ngành khoa học này.
Thuật ngữ logic nguyên là một từ gốc Hi Lạp (logike) với ý nghĩa là một môn khoa học về tư duy và từ này lại bắt nguồn từ một từ khác logos có nghĩa là "lời nói", "trí tuệ", "lập luận". Thuật ngữ này đi vào tiếng La tinh thành logica. Từ này là nguồn gốc của hàng loạt từ cùng nghĩa trong các ngôn ngữ ở châu âu như: logika (Nga, Ba Lan), logic (Anh), logique (Pháp),...
Từ logic của tiếng Việt bắt nguồn từ logique - một từ Pháp xuất hiện vào thế kỷ XIII. Thuật ngữ này trước đây còn gọi là "luận lý học", "lý học". Thuật ngữ logic thường được sử dụng với hai nghĩa sau:
Khoa học về hình thức và quy luật của tư duy. Nghiên cứu tư duy với tư cách là hệ thống ánh phản về giới hiện thực được xem xét dưới góc độ tính chân thực hay giả dối của các ánh phản ấy. Tức là nó nghiên cứu những quy luật và hình thức suy luận của tư duy nhằm đi tới sự nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan.
Những mối liên hệ tất yếu có tính quy luật giữa các sự vật và các hiện tượng trong hiện thực khách quan cũng như giữa những ý nghĩ, tư tưởng trong tư duy, trong lập luận của con người.
Cho tới nay, sự phát triển của logic học đã trải qua nhiều giai đoạn và đạt được những thành tựu to lớn, nó chiếm một vị trí vô cũng quan trọng trong đời sống.
Có thể nói trong mọi môn học, trong mọi nghề nghiệp chúng ta đều phải sử dụng "tính logic" của nó. Nhờ logic mà môn học đó có tính chặt chẽ và chính xác hơn, trong công việc nhờ logic sẽ giúp chúng ta thành đạt hơn. Và một điều hiển nhiên chúng ta rất dễ nhận biết đó là trong cuộc sống hàng ngày thường xuyên nghe những câu "không logic", "nói chẳng ăn khớp gì hết", "nói như vậy là có lý", "mâu thuẫn", rồi những cuộc suy luận, tranh luận vẫn thường xuyên xảy ra. Vậy thì vì sao lại có những câu nói như vậy và để giải quyết vấn đề đó như thế nào logic học sẽ cung cấp cho ta một công cụ phân tích, trả lời những câu hỏi đó.
2. Logic và ngôn ngữ
Phương tiện để trình bày logic đó lại là ngôn ngữ, ngôn ngữ là phương tiện duy nhất để chuyển tải logic một cách rõ ràng và có hệ thống, cụ thể là qua tiếng Việt. Tiếng Việt là một siêu ngôn ngữ để miêu tả logic và chúng có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau.
Logic và ngôn ngữ đều là những hệ thống kí hiệu. Chúng có nhiều điểm giống và điểm khác biệt nhau.
Đặc điểm
Logic
Ngôn ngữ
Kí hiệu
- Nhân tạo và hình thức. Do vậy là những kí hiệu thuần nhất, đơn trị và bất biến
- Tự nhiên, nên biến đổi và đa trị. Chúng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác như thay đổi theo thời gian, thời đại, thay đổi theo không gian và tạo ra các vùng phương ngữ, thay đổi theo giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hoá,...
Đơn vị
- Đơn vị cơ bản là khái niệm và phán đoán (còn gọi là mệnh đề)
- Phán đoán chỉ tương ứng với câu tường thuật
-Từ (cấp độ từ) và câu (cấp độ câu).
-Ngoài ra ngôn ngữ còn có âm vị (thuộc cấp độ ngữ âm)
-Ngôn ngữ còn có những câu khác nữa không phải là phán đoan: câu cảm thán, mệnh lệnh, cầu khiến,...
Cú pháp
Logic dùng các tác tử logic dể tạo phán đoán mới từ một hay nhiều phán đoán đã biết. Ngôn ngữ cũng có những liên từ tương ứng và có chức năng tương tự như các liên từ logic.
- Người ta quan tâm đến giá trị chân lý của các phán đoán.
-Quan tâm tới phương diện hình thức cấu tạo- logic đơn trị về cấu trúc.
- Cần đúng theo nguyên tắc cú pháp và phương diện ngữ nghĩa.
-Do có nhiều cách diễn đạt của cùng một nội dung nên có hiện tượng đa trị về cấu trúc
Quy luật
-Là những quy luật, quy tắc hình thức, phổ quát và cố định.
-Suy luận hoàn toàn hình thức.
-Quy luật quy tắc của ngôn ngữ, bên cạnh đặc điểm hình thức còn phụ thuộc vào nội dung. Ngoài cái phổ quát chung cho mọi ngôn ngữ còn có đặc thù cho từng ngôn ngữ riêng.
-Ngoài suy luận hình thức như logic còn suy luận qua cấu trúc, ngữ cảnh, tri thức,...
Tuy có sự khác biệt nhau nhưng chúng lại có mối quan hệ vô cùng khăng khít với nhau. Ngôn ngữ là phương tiện để thể hiện logic, nhờ có ngôn ngữ mà ta mới thấy được logic chặt chẽ như thế nào và ngược lại chính nhờ logic mà ta thấy được "tính giá trị của ngôn ngữ", sự luân chuyển linh hoạt, đa dạng, phong phú của ngôn ngữ. Hơn thế nữa, chúng ta thấy được tư duy sâu sắc nhạy bén của con người, khả năng vận dụng ngôn ngữ logic vào cuộc sống một cách nhuần nhuyện và tinh tế.
II. Lập luận logic
1. Lập luận logic
Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một/một số kết luận hay chấp nhận một/một số kết luận nào đó.
Trong một lập luận, có ba thành tố logic là:
-Tiền đề (luận cứ): là một hay nhiều dữ kiện xuất phát làm căn cứ cho lập luận, từ đó suy ra dết đề.
-Kết đề: là một khẳng định đích hay là một khẳng định mục tiêu.
-Lí lẽ (còn gọi là luật suy diễn hay là luận chứng): là những yếu tố mà nhờ đó từ tiền đề chúng ta suy ra kết đề.
Sơ đồ khái quát của một lập luận:
D C
(tiền đề, sự kiện) (kết đề)
L
(lí lẽ, luật suy diễn)
Đi vào cụ thể chúng ta sẽ thấy nhiều nhà khoa học đã sử dụng logic lập luận trong nghiên cứu, trong việc diễn đạt ngôn từ, tư duy thể hiện tài trí trong ứng biết và sáng tạo.
Câu chuyện:
Có hai người bạn tham ăn ngồi ăn cơm với nhau nhưng muốn tỏ ra lịch sự. Khi trong đĩa chỉ còn hai miếng thịt gà, một to, một nhỏ thì họ đều ngồi im chờ đợi. Cả hai đều nghĩ: "Nếu anh ta gắp thịt gà trước, thì anh ta sẽ gắp miếng nhỏ để tỏ thái độ lịch sự". Họ chờ mãi, một lúc lâu sau một anh đã gắp miếng thịt gà to lên. Thấy vậy người kia lập tức mắng bạn mình:
- Bác thật là thiếu lịch sự! Nếu là người lịch sự, khi gắp trước bác phải gắp miếng bé trước chứ!
Người thứ nhất hỏi lại:
- Nếu là bác thì bác sẽ gắp miếng nào?
- Tất nhiên là gắp miếng bé rồi! Người kia bực tức trả lời.
- Vậy thì đằng nào miếng to cũng là của tôi, thưa bác!
Người thứ nhất mỉm cười và tiếp tục ăn.
2. Lập luận trong những câu chuyện trí tuệ người xưa
Lập luận có nhiều cách khác nhau được con người áp dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống. Có các dạng lập luận như:
- Lập luận theo logic
- Lập luận theo logic tự nhiên
- Chứng minh và bác bỏ
- Ngộ biện và nguỵ biện
Trong mỗi dạng này lại có những cách lập luận chi tiết hơn. Trong giới hạn của mình, ở bài viết này chỉ đưa ra một số dạng lập luận được các nhà trí tuệ xưa đưa vào áp dụng một cách rất hóm hỉnh và thông minh.
2.1. Lập luận theo logic
Trong logic, từ một hay một số mệnh đề (còn gọi là phán đoán) đã biết, ta su...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top