c4sau_chu4

New Member

Download miễn phí Văn hoá, triết lý và triết học





Văn hoá dân tộc là môi trường sống, nguồn nuôi dưỡng các hệ thống triết
học bác học. Các hệ thống triết học bác học là sản phẩm trước hết của nền
văn hoá dân tộc, chúng đượctích tụ, chưng cất và thăng hoa qua tài năng
nhận thức, suy tư và bản lĩnh của các triết gia. Không chỉ chất liệu của các
hệ thống triết học bác học được tích tụ và trầm lắng, tinh luyện từ văn hoá
mà cả năng lực nhận thức, suy tư và bản lĩnh cùng những phẩm chất khác
của các triết gia sáng tạo nên các hệ thống triết học bác học cũng đều được
nẩy mầm, nuôi dưỡng trong nền văn hoá dân tộc.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

riển các hệ thống triết học.
Các triết lý, các hệ thống triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất trong
nền văn hoá của một dân tộc. Xét trên nhiều khía cạnh, triết lý luôn ở tầm
thấp hơn so với các hệ thống triết học, song nó chính là chất liệu của các
hệ thống triết học bác học. Theo tác giả, văn hoá, các triết lý và các hệ
thống triết học chính là ba tầng bậc khác nhau của văn hoá theo nghĩa
rộng.
Văn hoá theo gốc tiếng Latinh (cultura) có nghĩa là canh tác, nuôi dưỡng,
giáo dục, phát triển, tôn trọng. Trong lịch sử, ban đầu người ta thường đồng
nhất văn hoá với tất cả những gì do con người tạo ra. Văn hoá là hệ thống
các nguyên tắc, cách thức, chương trình, cách hoạt động sống
thuộc tầng trên sinh học của con người. Hệ thống ấy được hình thành và
phát triển qua quá trình lịch sử và giúp cho việc duy trì và cải biến đời sống
xã hội. Các chương trình, cách hoạt động ấy được hợp thành bởi
các tri thức, chuẩn mực, thói quen, lý tưởng, cách hành động, tư tưởng, học
thuyết, lòng tin, mục tiêu, định hướng giá trị… Những cái đó lại rất đa
dạng, được tích luỹ lâu đời, tạo thành kinh nghiệm xã hội - một yếu tố cấu
thành văn hoá, được di truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Văn hoá gắn liền với cách hoạt động sống của con người, nhờ đó
mà phân biệt được sự tồn tại của con vật với cuộc sống của con người. Có
nhiều nhánh quan điểm khác nhau về văn hóa, song nó luôn được xem như
quá trình phát triển lý trí và các hình thức sống có lý trí của con người, trái
ngược với tính chất hoang dại và man rợ ở thời kỳ tiền sử. Văn hóa là đời
sống tinh thần của con người được duy trì và phát triển trong tiến trình lịch
sử, là sự tiến hóa của ý thức đạo đức, luân lý, tôn giáo, triết học, khoa học,
pháp luật và ý thức chính trị, thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Mặt khác,
người ta cũng xem văn hoá như những điểm đặc thù của một xã hội. Văn
hoá là hệ thống các giá trị và tư tưởng quy định kiểu tổ chức xã hội ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau. Các hệ thống đó là khác nhau và tương
đối độc lập với nhau, trong chúng bao gồm toàn bộ tài sản văn hoá vật chất,
tập quán chủng tộc, các dạng ngôn ngữ và các hệ thống biểu trưng khác.
Văn hoá chỉ là tính tích cực của con người trong hành vi, hoạt động và giao
tiếp, nhằm tạo ra một thế giới mới – thế giới nhân tạo khác với giới tự
nhiên. Văn hoá như là cách thực hiện và điều chỉnh các hoạt động
của con người, là phương diện đặc biệt của đời sống xã hội. Nó tạo ra và
truyền tải từ thế hệ này đến thế hệ khác các nguyên tắc, cách thức, các
chương trình trên sinh học về hành vi, hoạt động và giao tiếp của con
người. Như vậy, văn hoá không đồng nhất với xã hội mà chỉ là một phương
diện đặc biệt của xã hội, hiện diện trong tất cả các trạng thái xã hội khác
nhau và cũng không có một hiện tượng xã hội nào không chịu ảnh hưởng
hay không mang dấu ấn của văn hoá.
Văn hoá còn được xem là hệ thống mã (code) thông tin, mã hoá các kinh
nghiệm xã hội của con người. Kinh nghiệm ấy thể hiện như những chương
trình trên sinh học về hành vi, hoạt động và giao tiếp. Nếu trong các hệ
sinh học bao giờ cũng có những kết cấu thông tin đặc biệt để quản lý và
điều chỉnh hệ thống sinh học ấy (AND, ARN), được gọi là gen, thì trong
các hệ thống xã hội gen di truyền ấy là văn hoá. Các dạng hành vi, hoạt
động, giao tiếp được điều chỉnh bằng các “chương trình, mã văn hoá”
nhằm tái sản xuất và phát triển các yếu tố, các tiểu hệ thống xã hội và các
quan hệ của chúng, các thiết chế xã hội, các loại nhân cách đặc trưng cho
xã hội đó. Điều đó tương tự như mã di truyền sinh học điều khiển trao đổi
chất để tạo nên các tế bào và các bộ phận của cơ thể sinh vật.
Mã di truyền xã hội có chức năng chuyển tải từ người này qua người khác,
từ thế hệ này qua thế hệ khác toàn bộ các kinh nghiệm xã hội. Để có thể
truyền tải, bảo tồn được thì khối các kinh nghiệm đó phải được thể hiện
dưới dạng các loại ký hiệu khác nhau, như âm thanh, chữ viết, tiếng nói,
điệu bộ, hình ảnh… Hệ thống các ký hiệu như vậy phải rất đa dạng, phong
phú mới có thể ghi nhận được khối các kinh nghiệm xã hội vốn thường
xuyên được đổi mới, bổ sung và phát triển. Hệ thống ký hiệu ấy cũng là
một trong những yếu tố cấu thành của văn hóa.
Trong giới tự nhiên thứ hai, các sản phẩm do con người tạo nên cũng là
những ký hiệu dưới các dạng thức và ý nghĩa khác nhau. Các vật thể văn
hóa vật chất đóng vai trò kép trong đời sống con người: một mặt, chúng
phục vụ trực tiếp mục tiêu thực tiễn, cụ thể cho các nhu cầu hàng ngày của
con người, như ăn, mặc, ở, đi lại… Mặt khác, chúng lại là phương tiện bảo
tồn, chuyển giao các chương trình (programs), ý nghĩa, nội dung, phương
thức điều chỉnh hoạt động, hành vi, giao tiếp. Dưới góc độ ấy, giới tự nhiên
thứ hai mang ý nghĩa và nội dung văn hóa sâu sắc.
Các thành tố văn hoá trong hệ thống chỉnh thể bao hàm và gắn kết lẫn nhau
tạo nên những cái chung, những triết lý mang tính thế giới quan, trong đó
tích trữ những kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ được. Chúng không phải là
những phạm trù triết học dù chúng phản ánh hiện thực, thể hiện thành
những quy tắc, chuẩn mực của hoạt động, thành những triết lý, thành các
cái chung văn hoá. Các triết lý có thể hoạt động và phát triển cả ở bên
ngoài các hệ thống triết học, nhưng chúng lại vốn có trong các nền văn hoá
mà ở đó, chưa có những hình thức phát triển của các hệ thống triết học.
Các triết lý xuất hiện, phát triển và hoạt động trong đời sống xã hội và cá
nhân, mỗi yếu tố đều hay trực tiếp hay gián tiếp, liên hệ với nhau. Trong
các triết lý đã có thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản
và các mặt của hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan hệ
xã hội, đời sống tinh thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những
quan niệm ấy ẩn chứa bên trong các nội dung, chương trình, cách
hoạt động chung của xã hội và được cụ thể hoá bằng những quan niệm cụ
thể hơn, định hướng cho hoạt động của các cá nhân và cộng đồng.
Trong các triết lý mang tính thế giới quan có thể có những phương án sống
và hoạt động riêng, đặc trưng cho những kiểu văn hoá khác nhau và ăn sâu
trong ý thức con người. Đồng thời chúng cũng gắn liền với những nội
dung, cách, chương trình hành động của quá khứ lẫn tương lai, thể
hiện những đặc điểm của cách giao tiếp và hoạt động của con
người, của việc bảo tồn, chuyển tải kinh nghiệm xã hội và thang bậc giá trị.
Chúng mang đặc trưng dân tộc và chủng tộc trong mỗi nền văn hoá, xác
định đặc điểm của các nền văn hoá khác nhau. Ý nghĩa của những triết lý
trong văn hoá sẽ được các cá nhân nhận thức và chúng sẽ xá...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top