78_87

New Member

Download miễn phí Tính sáng tạo của triết học mác thực chất và ý nghĩa lịch sử





Triết học Mác, cũng như các học thuyết triết học khác, không thể hình
thành một cách tự phát. Để tạo nên một hệ thống lý luận chặt chẽ, nó phải
cần đến một khối lượng công việc khoa học đồ sộ, sự hoạt động nghiên cứu
không mệt mỏi của tư duy, sự nhận thức thấu đáo vềmặt lý luận toàn bộ
thành tựu khoa học và kinh nghiệm đấu tranh xã hội của các thời đại lịch
sử. Bước ngoặt cách mạng trong triết học Mác; đương nhiên, gắn liền một
cách biện chứng với việc nắm bắt các thành tựu tư duy lý luận và văn hóa
của nhân loại. Trong Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác,V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng, mọi toan tính xem xét chủ nghĩa Mác bên
ngoài con đường phát triển của văn hóa nhân loại, biến nó thành một học
thuyết biệt phái, “đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoàicon đường phát
triển vĩ đại của văn minh thế giới” đều là biểu hiện của cách tiếp cận mang
tính xuyên tạc, trái với chân lý(5).



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

TÍNH SÁNG TẠO CỦA TRIẾT HỌC MÁC THỰC CHẤT VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ
ĐINH NGỌC THẠCH (*)
Để làm rõ thực chất và ý nghĩa lịch sử trong tính sáng tạo của triết học
Mác, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải việc C.Mác đã kế
thừa có chọn lọc và phát triển sáng tạo di sản văn hoá nhân loại, nhất là
lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, gắn kết với thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới và những thành tựu mới của khoa
học, gắn kết hữu cơ chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng để tạo nên một
học thuyết cách mạng về giải phóng con người, giải phóng xã hội. Với tư
cách một hệ thống lý luận chặt chẽ nhưng lại mang tính mở, triết học Mác
vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và ý nghĩa cách mạng của nó trong thời đại
ngày nay, vẫn là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến
bộ, là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trong
công cuộc đổi mới đất nước.
1. Triết học Mác ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà trong văn
hoá châu Âu quá trình phi cổ điển hoá đã đạt được kết quả bước đầu, với
sự hình thành những môtíp mới của sáng tạo, khác với truyền thống cổ điển
thời kỳ Hy Lạp – La Mã cổ đại. Về triết học, quá trình phi cổ điển hoá gắn
liền với sự hình thành hai khuynh hướng chủ đạo – phi duy lý và thực
chứng – khoa học. Cả hai khuynh hướng này đều từ bỏ cách tiếp cận đã tồn
tại suốt hàng ngàn năm đối với các vấn đề triết học. Khuynh hướng thứ
nhất gắn liền với tên tuổi của A.Schopenhauer - cha đẻ của triết học sự
sống và ý chí luận. Khuynh hướng thứ hai gắn với A.Comte - người khởi
xướng chủ nghĩa thực chứng xã hội học. Đối với Comte, các khái niệm triết
học chủ đạo của siêu hình học truyền thống, như vật chất, tồn tại, tinh thần,
ý thức, cái phổ quát, cũng như cuộc tranh luận triền miên xung quanh vấn
đề tính có trước và tính có sau trong quan hệ vật chất – ý thức là mơ hồ và
vô giá trị trước những đòi hỏi của sự phát triển khoa học, nhận thức. Vì
vậy, ông chủ trương vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm,
xác lập con đường thứ ba trong triết học, hướng triết học vào các vấn đề
của khoa học cụ thể, trước hết là khoa học thực nghiệm, nhằm kiểm chứng
các luận điểm triết học thông qua tính hiệu quả, tính khách quan theo cách
hiểu của ông. Ngược lại, trong ý chí luận của mình, A. Schopenhauer xem
ý chí như sức mạnh thiết định sự tồn tại của thế giới. Là đối thủ tư tưởng
của Hêghen, Schopenhauer đã phê phán chủ nghĩa duy lý truyền thống và
xem lý trí chỉ như kẻ phụng sự ý chí. Sự xoay chiều tư tưởng ấy ở
Schopenhauer có lý do sâu xa, trước hết là từ hiện thực bi kịch của nước
Đức và những thất bại, những uẩn khúc trong đời sống riêng tư của bản
thân ông. Triết học Schopenhauer sau cách mạng dân chủ tư sản đã ảnh
hưởng đáng kể đến giới trẻ có học thức ở Đức và Tây Âu, và cùng với các
nhà triết học kế tiếp – S.Kierkegaard, F.Nietzsche đã tạo nên cái trục phi
duy lý của triết học phi cổ điển – hiện đại phương Tây.
Ở Đức, trong khi Kierkegaard chối bỏ chủ nghĩa duy lý của Hêghen để đi
vào mặc khải Thiên Chúa, thì N.Stirner, một đại biểu của phái Hêghen trẻ –
lại kết hợp hệ thống Hêghen với chủ nghĩa cá nhân triệt để. Và trong khi
Kierkegaard cố gắng thoát hẳn khỏi truyền thống cổ điển, thì N.Stirner lại
không thể vượt qua hệ thống Hêghen, mà tái thiết nó theo tinh thần của cái
Tôi. Vào năm 1948, khi C.Mác và Ph.Ăngghen công bố Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, thì cũng trong khoảng thời gian đó, Kierkegaard xuất bản
cuốn Đối thoại Kitô giáo, với nội dung chủ yếu là chống lại chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa vô thần.
Chính trong bối cảnh đó, thái độ đối với truyền thống, cụ thể là đối với hệ
thống Hêghen, đã có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành bản chất của
triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập. Thay vì sự chối bỏ, C.Mác và
Ph.Ăngghen nhấn mạnh tính kế thừa có chọn lọc tinh hoa tri thức nhân
loại, từ cổ đại đến các bậc tiền bối trực tiếp, nhưng không hoà lẫn vào dòng
chảy của chủ nghĩa nhân văn phương Tây như E.Fromm – một thay mặt của
trường phái Frankfurt - đã làm, mà thực hiện bước ngoặt cách mạng trong
lịch sử tư tưởng nhân loại. Yếu tố nào đóng vai trò chủ đạo trong sự lựa
chọn cách tiếp cận đó của C.Mác và Ph.Ăngghen? Theo chúng tôi, đó là
phép biện chứng. Ngay từ khi C.Mác và Ph.Ăngghen còn đứng trên lập
trường duy tâm, phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, từ Kant đến
Hêghen, đặc biệt là phép biện chứng Hêghen, vẫn có sức lôi cuốn mạnh mẽ
nhất. Trong diện mạo văn hóa của chủ nghĩa Mác luôn bao hàm nguyên tắc
kế thừa và phát triển, sự đánh giá nghiêm túc và khoa học đối với di sản
văn hóa tinh thần nhân loại, được cô đọng trong các học thuyết triết học, từ
Cổ đại đến Cận đại, đồng thời xác định triết học như một “tinh hoa về mặt
tinh thần của thời đại”(1). Không chỉ thế, C.Mác còn nhấn mạnh rằng, “các
triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại
mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất , quý giá và vô hình
được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”(2).
Có thể nói, việc tiếp cận với môi trường văn hóa sống động của châu Âu
nói chung, nước Đức nói riêng và xa hơn nữa, việc làm quen với di sản văn
hóa đồ sộ của nhân loại, đã tạo nên bản chất cách mạng và giàu tính nhân
văn cho triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Mục tiêu cuối
cùng của chủ nghĩa Mác là giải phóng con người và tạo ra môi trường cho
sự sáng tạo tự do của con người, hay nói như C.Mác và Ph.Ăngghen, tạo ra
môi trường sáng tạo cho những Raphaen của thời đại(3). Điều quan trọng
là, những bài học rút ra từ việc tìm hiểu, nhận thức các giá trị văn hóa nhân
loại đã thôi thúc những người sáng lập chủ nghĩa Mác tìm kiếm con đường
hiện thực của sự giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đưa lịch sử
tiến về phía trước. Trong triết học Mác, ngay từ lúc mới hình thành, chức
năng hệ tư tưởng đã không tách rời chức năng văn hóa. T.I.Ôigiécman cho
rằng, khi đề cập đến chức năng hệ tư tưởng của triết học Mác, chúng ta cần
nhấn mạnh tính định hướng của nó đối với giai cấp công nhân trong cuộc
đấu tranh chống ý thức hệ tư sản; song, chớ nên quên rằng, triết học Mác
đã kế thừa những gì tốt đẹp nhất trong triết học tư sản cổ điển, mà đó lại
chính là những yếu tố đã đóng góp vào kho báu tinh thần của nhân loại.
Thái độ hư vô chủ nghĩa của phái “Văn hóa vô sản” đối với lịch sử chẳng
khác nào đồng nhất triết học Mác với hệ tư tưởng, phủ nhận tính kế thừa
trong sự phát triển tư duy(4).
Triết học Mác, cũng như các học thuyết triết học khác, không thể hình
thành một cách tự phát. Để tạo nên một hệ thống lý luận chặt chẽ, nó phải...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Sử dụng sơ đồ tư duy trong các tiết ôn tập môn toán 12 nhằm phát huy tính sáng tạo và nâng cao khả năng ghi nhớ của học sinh Luận văn Sư phạm 0
S Tính sáng tạo của sinh viên trường Đại học Hà Nội Tâm lý học đại cương 2
K Tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật Tâm lý học đại cương 0
M Tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ con Tâm lý học đại cương 0
H Tính sáng tạo trong kịch bản truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình ở Đài truyền hình Việt Nam Văn học 0
N Phát huy tính tích cực chủ động và bồi dưỡng tư duy sáng tạo của học sinh thông qua xây dựng hệ thốn Luận văn Sư phạm 0
M Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học tính tích phân ở lớp 12 Trung học phổ thôn Luận văn Sư phạm 2
D Xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học tác phẩm v Luận văn Sư phạm 0
C Công ty tôi sáng tạo ra phần mềm máy vi tính và đem bán, vậy từ khi phát sinh các chi phí đến khi bá Hỏi đáp Thuế & Kế toán 1
H Tính toán kiểm tra thiết kế hệ thống chiếu sáng tự nhiên và nhân tạo tại phân xưởng ở công ty bóng đ Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top