Download miễn phí Một số vấn đề triết học đặt ra ở Châu á -Thái Bình Dương hiện nay





Trước hết, như chúng ta đều biết, nếu như kinh tế học tập trung nghiên cứu các
quy luật kinh tế của toàn cầu hoá kinh tế, nhìn nhận toàn cầu hoá như một sự
vươn xa của kinh tế hàng hoá; còn xã hội học chú trọng phát hiện những biến đổi
xã hội trong cơn lốc toàn cầu hoá thì triết học nhìn nhận toàn cầu hoá như một
chỉnh thể. Dưới góc độ triết học, toàn cầu hoá được xem xét không đơn thuần chỉ
là toàn cầu hoá kinh tế, mà còn là tiến trình phát triển trong tổng thể những mối
liên kết chằng chịt giữa các quốc gia về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, giá
trị, trong một chỉnh thể thế giới thống nhất. Do đặc tr ưng của tư duy triết học
là chú ý tới tính toàn diện của các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và sự
phát triển của chúng cho nên quá trình toàn cầu hoá được triết học xem xét
không chỉ trong tính chỉnh thể, mà còn trong sự vận động, biến đổi và phát triển
của nó.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC ĐẶT RA Ở CHÂU Á - THÁI BÌNH
DƯƠNG HIỆN NAY
TRẦN ĐỨC CƯỜNG (*)
Toàn cầu hoá là một hiện tượng phức tạp, có tác động sâu rộng đến mọi quốc
gia, dân tộc trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các nước thuộc khu vực châu Á -
Thái Bình Dương có thái độ như thế nào đối với vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc;
phải giải quyết các vấn đề quốc gia dân tộc, chủ quyền dân tộc, tính tự quyết dân
tộc, phân tầng xã hội, giá trị người và đời sống con người… như thế nào? Đặc
biệt, phải làm gì để chống lại sự huỷ hoại về mặt giá trị của toàn cầu hoá…? Đó
là những vấn đề triết học cần được làm sáng tỏ của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá không phải là hiện tượng mới, mà có cả một quá trình lịch sử lâu
dài. Quá trình đó được bắt đầu bằng sự mở rộng thuộc địa và thị trường của chủ
nghĩa tư bản từ thế kỷ XV và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX.
Trong một vài thập niên gần đây, quá trình toàn cầu hoá ngày càng tác động một
cách rộng lớn và sâu sắc đến mọi quốc gia dân tộc trên thế giới. Những mối dây
liên hệ chằng chịt, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế, đã thắt chặt các quốc gia lại
với nhau, góp phần tạo nên xu hướng đồng nhất hoá thế giới.
Nói đến toàn cầu hoá, trước hết, người ta nói đến toàn cầu hoá kinh tế. Bởi vì
lĩnh vực kinh tế là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Sự thay
đổi nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là công nghệ viễn thông và tính chất
của thị trường đã làm cho thị trường không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang
tính quốc tế. Sau lĩnh vực kinh tế, mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, từ
chính trị đến văn hoá, cũng đều chịu ảnh hưởng với mức độ khác nhau của cơn
lốc toàn cầu hoá. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, sự biến động ở một
quốc gia này rất có thể ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến hàng loạt quốc gia
khác. Có lẽ bản thân những nước đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính - kinh
tế ở châu Á năm 1997 hiểu rõ điều đó hơn ai hết.
Hiện nay, toàn cầu hoá là một quá trình diễn ra không đồng đều cả về cường độ,
nhịp điệu lẫn tính chủ động ở các nước khác nhau. Ngay cả thái độ đối với quá
trình toàn cầu hoá cũng hết sức khác nhau. Có một nghịch lý đang diễn ra là,
trong khi các chính phủ ở nhiều nước, cả những nước phát triển và đang phát
triển, muốn tìm cách đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá thì ngay tại các nước đó,
nhiều người dân của họ lại tìm đủ mọi cách để ngăn chặn quá trình này dưới các
hình thức khác nhau, từ tuyên truyền, diễu hành, biểu tình đến đập phá và thậm
chí là có cả bạo loạn. Không ít các tổ chức phi chính phủ, các nghiệp đoàn, các
nhà hoạt động xã hội của các nước coi Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) như kẻ thù. Không ít các học giả trong và ngoài khu vực châu Á –
Thái Bình Dương ngày càng nói nhiều hơn về những mặt trái mà quá trình toàn
cầu hoá đang mang lại cho các nước trong khu vực này.
Rõ ràng là, bên cạnh những cơ hội, toàn cầu hoá đang tạo ra những thách thức vô
cùng to lớn cho các nước đang phát triển; không phải mọi quốc gia đều thu được
lợi như nhau từ quá trình này. Sự bất công bằng trong toàn cầu hoá, chủ nghĩa
bảo hộ mậu dịch của các nước phát triển cùng với hố sâu ngăn cách dường như
không thể xoá nhoà về khoa học - kỹ thuật đã làm trầm trọng thêm khoảng cách
giàu - cùng kiệt giữa các quốc gia. Người dân của các nước giàu ngày càng giàu
hơn, người dân của các nước cùng kiệt ngày càng cùng kiệt hơn. Chính quyền ở một số
nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhiều khi phải nhượng bộ các
tập đoàn kinh tế toàn cầu; trong khi đó, ảnh hưởng của các tập đoàn này đối với
các nước ngày càng lớn, thậm chí mang tính chất lũng đoạn. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên nhiều người phản đối toàn cầu hoá đã từng tuyên bố rằng, toàn cầu
hoá và mậu dịch tự do hiện đang trực tiếp làm tổn hại đến nhân quyền, luật lao
động và môi trường sống; toàn cầu hoá là nguồn gốc của những thảm cảnh như:
cùng kiệt đói, bất bình đẳng, tham nhũng và suy thoái văn hoá. Ngoài ra, cùng với
xu hướng toàn cầu hoá, hàng loạt vấn đề xã hội bức xúc đang làm đau đầu tất cả
các quốc gia dân tộc, nhất là nạn khủng bố, tội phạm quốc tế, tình trạng di dân
và nạn buôn người xuyên quốc gia.
Chính điều này đang tạo ra những nét khác biệt xã hội căn bản giữa các nước
phát triển và các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển ở châu Á – Thái
Bình Dương đang phải chịu một sức ép lớn về tăng trưởng. Nói một cách
hoa mỹ thì “tăng trưởng” là chìa khoá vàng để hội nhập với thế giới hiện đại;
còn về thực chất, tăng trưởng, thậm chí là tăng trưởng với tốc độ tối đa, là cách
duy nhất để bảo tồn quốc gia dân tộc. Nhưng các nước này muốn tăng trưởng
đều bắt buộc phải nâng cao khối lượng tư bản bằng cách tăng tỷ lệ tiết kiệm nội
địa và nhập khẩu vốn nước ngoài. Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế châu Á
năm 1997 đã chứng minh một điều là tiềm lực tài chính nội địa của phần lớn các
quốc gia châu Á còn quá mong manh và quá lệ thuộc vào tư bản nước ngoài. Sự
lệ thuộc về kinh tế tất yếu dẫn đến sự lệ thuộc về chính trị. Các nước phát triển
sau không chỉ phải thay đổi các điều luật, mà còn phải thay đổi nhanh chóng một
phần thể chế chính trị lẫn cách thức sinh hoạt chính trị để phù hợp với hệ thống
tư bản toàn cầu. Đây cũng là một cánh cửa mà toàn cầu hoá mở ra cho các nước
tư bản xen vào nội tình của các nước khác. Đồng thời, khi nền kinh tế cùng với
hệ thống chính trị của nó thay đổi, thì kết cấu văn hoá và thang giá trị của xã hội
bị phá vỡ, đảo lộn là điều khó tránh khỏi. Đến lúc đó, việc nhập khẩu các mô
thức văn hoá, giá trị cũng sẽ dễ dàng như việc nhập khẩu tư bản vậy.
Nói tóm lại, toàn cầu hoá trong bối cảnh hiện nay là một hiện tượng vô cùng
phức tạp, do vậy đã và đang trở thành đối tượng nghiên cứu của tất cả các ngành
khoa học xã hội và nhân văn. Bất cứ dưới góc độ nào, dù là kinh tế học, chính trị
học, sử học, văn hoá học, hay xã hội học,… thì việc lý giải bản chất, đặc trưng
của quá trình toàn cầu hoá cũng như tác động của nó đối với mọi mặt của đời
sống xã hội cũng đều rất có ý nghĩa. Tuy nhiên, bức tranh đa diện về toàn cầu
hoá chỉ có thể biểu hiện khi có sự góp mặt của mọi khoa học, trong đó phải kể
tới triết học. Vậy triết học có thể đóng góp những gì khi nghiên cứu quá trình
toàn cầu hoá?
Trước hết, như chúng ta đều biết, nếu như kinh tế học tập trung nghiên cứu các
quy luật kinh tế của toàn cầu hoá kinh tế, nhìn nhận toàn cầu hoá như một sự
vươn xa của kinh tế hàng hoá; còn xã hội học chú trọng phát hiện những biến đổi
xã hội trong cơn lốc toàn cầu hoá thì triết h
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top