Download miễn phí Tiểu luận Toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược





IMFvà Bộ tài chính Mỹ cho rằng, tự do hoá thương mại là cần thiết để xây dựng thành công trong nền kinh tế thị trường nhưng khi Nga cố gắng xuất khẩu nhôm và uranium sang Mỹ, họ thấy cánh cửa đã bị đóng kín. Thực tế là nước Mỹ đã thành công mà chẳng cần tự do hoá thương mại. Họ được dạy là cạnh tranh là quan trọng nhưng chính phủ Mỹ lại đang thành lập một cartel về nhôm và trao quyền độc quyền nhập khẩu uranium đã làm giàu cho một nhà sản xuất độc quyền của Mỹ. IMF va Mỹ đã yêu cầu Nga tư nhân hoá nhanh chóng nhưng nỗ lực tư nhân hoá ở Mỹ kéo dài nhiều năm trời



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ân hàng nước ngoài được hình thành theo luật của nước ngoài nên khi tham gia vào hoạt động ở một nước nào đó nó thường chỉ chịu tác động của luật doanh nghiệp nước đó chứ không chịu tác động nhiều của luật của các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, mọi tác động của ngân hàng trung ương thông qua lãi suất chiết khấu thì thường chỉ có các ngân hàng trong nước chịu ảnh hưởng nhiều.
3.4 Kinh tế học "lọt sang xuống nia": Muốn giảm cùng kiệt đói trước tiên cần có tăng trưởng kinh tế. Nhưng khi việc tăng trưởng kinh tế đạt hiệu quả thì cần có cơ chế phân chia hợp lí để đảm bảo rằng người cùng kiệt được hưởng lợi từ thành quả đó. Bởi lẽ, bản thân tăng trưởng không thể tự nó thu hẹp được khoảng cách giàu cùng kiệt và bất bình đẳng.
3.5 Những ưu tiên và chiến lược: Trước tiên, chúng ta cần xem xét không chỉ những gì mà IMF đã đưa vào lịch trình hành động của nó mà ngay cả những gì đã bị bỏ sót. Bởi lẽ, nhiều điểm không được đề cập trong đồng thuận Washington lại có thể mang lại cùng lúc tăng trưởng cao hơn và bình đẳng hơn. Vì vậy, trước hết các nước đang phát triển cần tập trung vào những mục tiêu sau: (1) cải cách ruộng đất để người lao động cùng kiệt không chỉ có đất để sản xuất mà còn có khả năng tiếp cận nguồn tín dụng, (2) kiểm soát các vấn đề về tài chính một cách hiệu quả bởi đây là nguồn gốc của những cuộc khủng hoảng trên thế giới, (3) cần có cấu trúc kiểm soát phù hợp trước khi tự do hoá thị trường tài chính, (4) xem xét và xác định rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường bởi hầu hết các thị trường đều hoạt động không hiệu quả và cần có sự can thiệp của chính phủ…và cuối cùng là các tổ chức quốc tế chỉ nên là người tư vấn và tài trợ nguồn vốn cần thiết cho các nước để họ có thể tự mình thực hiện những chọn lựa của họ dựa trên những hiểu biết về hậu quả và những rủi ro của từng lựa chọn.
4 Cuộc khủng hoảng Đông Á:
4.1 Một vài nguyên nhân tạo nên sự "thần kì Đông Á": Sự "thần kì Đông Á" được thể hiện rõ trên 2 mặt đó là sự tăng trưởng của thu nhập và sự giảm thiểu cùng kiệt đói một cách nhanh chóng. Có được điều này là do các chính phủ các nước Đông Á đã có những chính sách hết sức đúng đắn: họ coi thương mại là quan trọng nhưng trọng tâm là thúc đẩy xuất khẩu chứ không phải xoá bỏ trở ngại cho nhập khẩu. Họ không nóng vội trong việc tự do hoá các thị trường một cách nhanh chóng mà được thực hiện theo một lịch trình cụ thể. Hơn thế nữa, vai trò của chính phủ trong các nước Đông Á là hết sức quan trọng bởi họ chính là những người định hướng thị trường và thúc đẩy thị trườDKng phát triển.
4.2 Tại sao chính sách của IMF và Bộ tài chính Mỹ lại dẫn đến khủng hoảng: IMF và Bộ tài chính Mỹ cho rằng, tự do hoá hoàn toàn tài khoản vốn sẽ giúp khu vực này tăng trưởng nhanh hơn. Những nước Đông Á không cần thêm vốn bởi họ có tỷ lệ tiết kiệm cao. Tuy nhiên, họ vẫn bị thúc giục tự do hoá tài khoản vốn vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Mà khi tự do hoá tài khoản vốn mà chưa có những thể chế đi kèm đã dẫn tới vô số rủi ro trong tài khoản vốn. Và một lẽ đương nhiên, khi rủi ro tăng thì tâm lý của nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng và việc tháo chạy vốn là điều không thể tránh khỏi.
IMF cho rằng, kiểm soát thị trường tài chính sẽ giảm hiệu quả kinh tế nhưng trên thực tế thì đây là một lập luận sai lầm. Bởi trước khi tự do hoá, Thái Lan áp đặt nghiêm ngặt trong việc cho vay đầu cơ bất động sản của ngân hàng. Họ quy định những hạn chế này vì họ là một nước cùng kiệt cần có tăng trưởng và họ tin rằng đầu tư số vốn ít ỏi của mình vào khu vực sản xuất sẽ tạo thêm việc làm và kích thích tăng trưởng. Họ cũng biết rằng cho vay đầu cơ bất động sản là nguồn gốc cơ bản của suy thoái kinh tế và kiểu cho vay này sẽ dẫn đến bong bóng đầu tư, những bong bóng này chắc chắn sẽ vỡ khi nền kinh tế chao đảo. Tuy nhiên, sau khi tự do hoá tài chính theo chỉ dẫn của IMF mà chưa có được một lịch trình hợp lý và một chính sách đầy đủ đã đẩy Thái Lan lâm vào suy thoái ngày càng trầm trọng.
4.3 Những sai lầm của IMF trong khủng hoảng Đông Á (1997):
4.3.1 Sai lầm đầu tiên dẫn tới khủng hoảng là IMF đã chuẩn đoán sai vấn đề. Bởi lẽ, khi xảy ra khủng hoảng, Đông Á đang ở trong tình trạng tương đối ổn định về kinh tế vĩ mô với áp lực lạm phát thấp và ngân sách chính phủ đang cân bằng hay thặng dư. Điều này có 2 hàm ý. Thứ nhất là sự sụp đổ của thị trường ngoại hối và chứng khoán, sự tan vỡ của bong bong nhà đất kèm theo sự sụt giảm đầu tư và tiêu dùng đã đưa Đông Á đến suy thoái. Thứ hai là sự sụp đổ kinh tế sẽ làm suy giảm doanh thu thuế và tạo ra mất cân đối ngân sách. Như vậy, vấn đề mà các nước Đông Á cần giải quyết trước mắt là thâm hụt thực hơn là thâm hụt cơ cấu (thâm hụt tồn tại ngay cả khi nền kinh tế hoạt động ở mức toàn dụng). Nhưng IMF lại tập trung vào giải quyết thâm hụt cơ cấu.
Thứ hai, nguyên nhân suy thoái kinh tế của Đông Á là do thiếu cầu chứ không phải dư cầu như ở Mỹ Latinh. Vì thế, biện pháp tốt nhất để ngăn ngừa khủng hoảng là chính phủ phải tìm cách kích cầu như giảm thuế, tăng chi tiêu hay nới lỏng chính sách tiền tệ. Nhưng IMF đã không làm thế, nó chỉ cho các nước vay khi các nước này cam kết thực hiện chính sách thắt chặt. Nhưng khi thực hiện chính sách này thì nó không chỉ tác động đến bản thân nền kinh tế nước đó mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến những nước láng giềng bởi khi gặp suy thoái các nước đều vực dậy nền kinh tế bằng cách cắt giảm nhập khẩu và chuyển nhu cầu tiêu dùng sang hàng nội địa. Các nước cắt giảm nhập khẩu bằng hàng rào thuế quan và phá giá tiền tệ, làm cho hàng hoá của mình rẻ hơn trong khi hàng hoá của các nước khác đắt hơn. Điều này đã làm cho sự lan truyền suy thoái kinh tế từ nước này sang nước khác trầm trọng hơn.
Thứ ba là các doanh nghiệp ở Đông Á là các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao vì thế việc áp đặt lãi suất cao đã đẩy nó nhanh chóng lâm vào tình trạng phá sản. Thậm chí nếu không phá sản, giá trị vốn cổ phần của doanh nghiệp cũng sẽ giảm nhanh chóng khi nó phải trả những khoản nợ lớn cho các chủ nợ. Để bảo vệ cho luận điểm của mình là đúng, IMF đã lập luận rằng nếu lãi suất không được đẩy lên cao, tỷ giá sẽ sụp đổ và điều này sẽ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp có nợ bằng đồng đô la. Nhưng thực tế là tăng lãi suất không hề ổn định đồng tiền mà thậm chí còn đẩy các doanh nghiệp chẳng liên quan gì phải trả giá cho những doanh nghiệp vay nợ nước ngoài nhiều. Hơn thế nữa, việc giảm lãi suất sau đó đã không làm cho các doanh nghiệp phục hồi lại được bởi giá trị của doanh nghiệp đã bị xoá bỏ hoàn toàn.
Thứ tư, trong khi Nhật Bản đề nghị giúp 100 tỉ USD để thành lập Quỹ tiền tệ Châu Á, nhằm tài trợ cho những biện pháp kích thích kinh tế cần thiết thì Bộ Tài chính Mỹ và IMF đã phản đối k...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top