Download miễn phí Tiểu luận Quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng - Thành quả, thời cơ và thách thức của sự nghiệp đổi mới





Mục Lục
Mục Trang
 
A. MỞ ĐẦU.4
I, Lý do chọn đề tài.4
II, Phương pháp nghiên cứu.5
a) Cơ sở phương pháp luận.5
b) Các phương pháp nghiên cứu cụ thể.5
B. NỘI DUNG.5
I. Bối cảnh lịch sử.5
II. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(tháng 12/1986) hoạch định đường lối đổi mới.7
III. Thành quả, thời cơ và hạn chế, thách thức
của công cuộc đổi mới thời kỳ 1986 đến nay 12
1, Thành quả và thời cơ của công cuộc đổi mới .12
2, Những hạn chế và thách thức còn tồn tại 14
C. KẾT LUẬN.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa...thích hợp với từng nội dung phân tích.
B. NỘI DUNG
I, Bối cảnh lịch sử
Chủ trương đổi mới xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam được căn cứ dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin, trên cơ sở đó áp dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam, của hệ thống chủ nghĩa xã hội đã và đang diễn ra lúc này.
Hiện tại, thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta vẫn phải đương đầu với những trở ngại rất lớn. Không chỉ vậy, nước ta còn mang nặng đặc điểm vốn có của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hậu quả lớn và lâu dài của chiến tranh do các thế lực thù địch đế quốc và bọn phản động quốc tế gây ra cũng đặt nước ta vào hoàn cảnh bắt buộc phải đổi mới mới có thể phát triển.
Tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta cũng như ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa đang gặp nhiều khó khăn do những khiếm khuyết của mô hình xã hội chủ nghĩa mà chúng ta chưa phát hiện để khắc phục. những biến động phức tạp xảy ra tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng gây ra nhiều bất lợi cho Cách mạng Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của nước ta vẫn diễn ra nghiêm trọng. Tình trạng nạn đói, thiếu lương thực, lạm phát cao ở nhiều tỉnh trong những năm 1978- 1989 làm đời sống nhân dân rất khó khăn, các hiện tượng gian lận và tệ nạn xã hội gia tăng.
Công cuộc cải tổ ở Liên Xô không sửa chữa được những sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trái lại đất nước ngày càng lún sâu vào khủng hoảng kinh tế, chính trị.
Các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút hết khỏi Campuchia để tiếp tục cô lập Việt Nam. Mỹ vẫn thực hiện chính sách cấm vận về kinh tế đối với nước ta làm cho quan hệ kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông Âu với nước ta bị thu hẹp.
Những khó khăn cả trong nước và quốc tế đòi hỏi Đảng ta phải bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết là đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng tình hình của nước ta lúc này để có thể đề ra những biện pháp chính xác, kịp thời, khắc phục khó khăn. Và công cuộc đổi mới phải được thực hiện toàn diện và sâu sắc cả trong tư tưởng nhân dân và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội khi nước ta đang bước vào thời kỳ quá độ. Vì vậy việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta là tất yếu lịch sử.
II, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) hoạch định đường lối đổi mới
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về Chủ Nghĩa Xã Hội và về thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã hoạch định đường lối đổi mới đất nước. Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và đặc biệt Đại hội VII (6-1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6-1996) và Đại hội IX (4-2001) đã không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận thức, tư duy lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn suốt 20 năm qua.
Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”.
Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan.
Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một thành phần nữa là Kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cù...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top