tieuyen19

New Member

Download miễn phí Tiểu luận Hệ thống Bretton Woods





MỤC LỤC
 
1. Đặc điểm của hệ thống Bretton Woods 2
2. Hoạt động của hệ thống Bretton Woods 3
3. Nguyên nhân sụp đổ của hệ thống Bretton Woods 4
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

I. Sự hình thành hệ thống Bretton Woods
Ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước đồng minh đã bắt đầu việc xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhằm thúc đẩy các quan hệ tiền tệ và thương mại quốc tế. Vào năm 1944, một hội nghị quốc tế được nhóm họp tại Bretton Woods (Mỹ) với sự tham gia của thay mặt 44 quốc gia đã đưa ra một loạt các biện pháp liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới với tên gọi là hệ thống Bretton Woods.
Hệ thống tiền tệ quốc tế mới được xây dựng chủ yếu trên cơ sở kế hoạch do đoàn đại biểu Mỹ đưa ra (một kế hoạch khác do Anh đưa ra đã không được chấp thuận) theo đó hệ thống phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau đây:
- Các tổ chức quốc tế - hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đòi hỏi phải thành lập một tổ chức quốc tế với những chức năng và quyền hạn nhất định.
- Chế độ tỷ giá hối đoái - tỷ giá hối đoái phải được xác định cố định về mặt ngắn hạn, nhưng có thể được điều chỉnh khi xuất hiện tình trạng “mất cân đối cơ bản”.
- Dự trữ quốc tế - để giúp chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hoạt động một cách có hiệu quả, các quốc gia cần tới một lượng dự trữ quốc tế lớn, vì vậy phải có sự gia tăng vàng và các nguồn dự trữ bằng tiền.
- Khả năng chuyển đổi của đồng tiền – vì lợi ích kinh tế chung mà tất cả các quốc gia phải tham gia vào mọi hệ thống thương mại đa phương tự do, trong đó các đồng tiền chuyển đổi tự do được sử dụng.
1. Đặc điểm của hệ thống Bretton Woods
Thứ nhất là chế độ tỷ giá. Tỷ giá hối đoái cố định trong ngắn hạn, có thể điều chỉnh trong những trường hợp cụ thể. Theo quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá cố định với USD và được phép dao động trong biên độ ±1%. Giá USD được cố định với vàng là 35USD/ounce. Việc cố định tỷ giá đôla với vàng đã tạo lòng tin cho cả thế giới vì Mỹ vào thời điểm đó chiếm 70% dự trữ vàng của thế giới. Chính phủ Mỹ cam kết đổi đôla ra vàng không hạn chế. Một cách gián tiếp, các quốc gia có thể hoàn toàn tin tưởng khi neo giá đồng tiền nước mình với đồng đôla. Trong những trường hợp mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thanh toán, các quốc gia có thể tiến hành phá giá hay nâng giá đồng tiền với biên độ nhỏ hơn 10% trước khi IMF phải can thiệp.
Thứ hai, là dự trự quốc tế. Muốn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, các quốc gia phải có một lượng dự trữ quốc tế đủ lớn bằng vàng và ngoại tệ. Theo quy định của IMF, tổ chức này sẽ giám sát và hỗ trợ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tiền tệ và thương mại. Để cho các quan hệ thương mại ổn định, cần duy trì một hệ thống tỷ giá ổn định, hiệu quả. Nhằm trành cho các quốc gia thành viên thực hiện phá giá hay nâng giá đồng tiền, IMF cung cấp cho các thành viên một hạn mức tín dụng thường xuyên để tài trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán. Hạn mức tín dụng phụ thuộc vào quy mô của các nền kinh tế và tỷ trọng đóng góp của các quốc gia đó vào IMF. Các quốc gia đóng góp vào IMF theo tỷ lện ¼ là tài sản dự trữ (chủ yểu là vàng), ¾ bằng đồng tiền quốc gia. Khi gặp khó khăn, mỗi thành viên được rút 25% hạn mức trong lần đầu, sau đó muốn rút thêm phải tuân thủ nghiêm ngặt các chính sách kinh tế của IMF đưa ra, có thể rút trong 4 lần, mỗi lần 25% hạn mức.
Thứ ba là khả năng chuyển đổi các đồng tiền. Các quốc gia tham gia vào quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Hiệp định chung về thương mại và thuế quan GATT phải cam kết chuyển đổi không hạn chế đồng nội tệ đối với các giao dịch trong cán cân vãng lai (có thể hạn chế kiểm soát chu chuyển vốn nhưng không kiểm soát các chuyển đổi tiền tệ phục vụ mục đích thương mại).
2. Hoạt động của hệ thống Bretton Woods
Thời gian tồn tại của hệ thống BW có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn “đói Đôla” (1940 – 1958) và giai đoạn “bội thực Đôla” ( 1959 – 1971).
Giai đoạn “đói đôla” (1940-1958):
Trong chiến tranh thế giới II, Mỹ đã thu được nguồn vàng lớn từ bên ngoài bằng việc buôn bán vũ khí cho các nước tham chiến. Sau chiến tranh, Mỹ đã có 1 nguồn dự trữ vàng lên tớI 26 tỉ đôla chiếm 60% dự trữ vàng trên toàn thế giới. Do đó, đồng đôla của Mỹ được coi là tốt như vàng.
Trong khi đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên các nước Tây Âu có một nhu cầu tín dụng lớn để nhập khẩu những gì cần thiết cho công cuộc tái thiết. Theo kế họach Marshall, vẫn được biết đến là kế hoạch tái thiết Châu Âu, từ 1948 đến 1954, $17 tỉ Mỹ đã được đưa vào 16 nước Tây Âu.
Hơn nữa, trong giai đoạn này, những bất đồng lớn trong phe đồng minh chống phát xít bắt đầu xuất hiện. Mặc dù Liên Xô có tham gia vào hộI nghị Bretton Woods năm 1944 nhưng Liên Xô lại từ chối tham gia vào quỹ tiền tệ thế giới. Đặc biệt trong không khí căng thẳng của chiến tranh lạnh, Mỹ đã phải chi trả một khoản lớn cho quân sự, do đó vào cuối những năm 50 đầu những năm 60 nền kinh tế Mỹ bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu của khủng hoảng.
Giai đoạn “bội thực đôla” (1959-1971):
Trong giai đoạn này, nền kinh tế ở các nước Tây Âu dần đi vào ổn định và phát triển. Nguồn dự trữ đôla ở ngân hàng các nước tăng lên nhanh với tốc độ không mong muốn, các ngân hàng đó bắt đầu tìm cách chuyển đổi đôla lấy vàng.
Thêm vào đó, thị trường vàng kép xuất hiện mà khoảng cách giữa giá vàng trên thị trường tự do với giá vàng của ngân hàng nhà nước là rất lớn, mức giá vàng trên thị trường tự do là $35/ounce, còn mức giá trên thị trường tự do biến động theo quy luật cung - cầu. Điều này dẫn đến tình trạng những nhà đầu cơ mua vàng ở ngân hàng trung ương và bán vàng trên thị trường tự do.
Lúc này, nền kinh tế của Tây Âu và Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Do đó, giá trị đồng tiền của các nước này cũng tăng. Lòng tin vào đồng đôla cũng giảm sút, nguồn vốn lớn bằng đồng đôla dần được chuyển sang các đồng tiền mạnh hơn.
Đến năm 1971, Mỹ phải tuyên bố ngừng đổi đồng đôla sang vàng và phá giá lần thứ nhất đối với đồng đôla. Bằng việc ký thỏa thuận Smith mà theo đó giá vàng chính thức được tăng từ 35 đôla lên $38/ounce, và đồng tiền của một số nước như Mac Đức, Yên Nhật, Franc Thụy Sỹ được nâng giá. Mức dao động xung quanh ngang giá được nâng lên từ 1% lên 2,25%. Do việc chuyển đổi đôla thành vàng không được phục hồi cho nên trong thời gian đó gọi là “chế độ bản vị đôla” tuy nhiên hiệp ước Smith chỉ tồn tại được 15 tháng.
Vào đầu năm 1973 do khủng hoảng của đồng $ nên các quốc gia công nghiệp chủ chốt đã bãi bỏ các mức ngang giá chính thức với đồng $ và thực hiện thả nổi độc lập (hay tập thể) đồng tiền của mình, sau khi Mỹ phá giá đồng $ lần thứ 2. Điều này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong việc cải tổ hệ thống Bretton Woods và sự sụp đổ của hệ thống bản vị $ này.
3. Nguyên nhân sụp đổ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top