Hardy

New Member

Download miễn phí Luận văn Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ- Tỉnh Phú Thọ





Huyện Thanh Thuỷ là một huyện thuần nông nên việc tưới tiêu phục vụ sản suất nông nghiệp của huyện được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Tình hình tưới tiêu của huyện Thanh Thuỷ được thể hiện cụ thể qua biểu 9.
Năm 1999, diện tích gieo trồng của huyện là 6.516,3 ha thì trong đó chỉ có 40% diện tích gieo trồng được tưới tiêu chủ động và 60% diện tích là tưới tiêu chủ động một phần và phải tạo nguồn. Đến năm 2000 và năm 2001, khi hệ thống thuỷ nông của 10 xã trong giai đoạn I quá trình KCH-KM và nâng cấp cải tạo; làm mới các công trình đầu mối được hoàn thành được đưa vào sử dụng phục vụ tưới tiêu cho sản suất nông nghiệp của huyện. Các xã vùng dự án có điều kiện đưa những giống mới và chuyển dịch cơ cấu cây trồng đã làm cho diện tích gieo trồng của huyện tăng lên 7.232,4 ha (năm2000), 7.359,5 ha (năm2001), với tốc độ tăng bình quân 6,27%/năm. Khi các công trình thuỷ nông của huyện được đưa vào khai thác và sử dụng đã làm cho diện tích chủ động tưới tiêu của huyện ngày càng tăng,với tốc độ tăng 44,96%/năm. Năm 2000,diện tích tưới tiêu chủ động là 5.315,65 ha tăng so với năm 1999 khi các công trình chưa được được hoàn thiện và sử dụng là 203,94%. Diện tích gieo trồng tưới tiêu chủ động một phần và phải tạo nguồn ngày càng giảm. Các diện tích này tập trung chủ yếu ở các xã có hệ thống kênh mương chưa được KCH xong hay chưa được KCH.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ong những năm tới do sự chuyển đổi các loại đất sang phục vụ mục tiêu khác của huyện. Qua biểu ta thấy, diện tích cây hàng năm huyện Thanh Thuỷ tăng khá nhanh, năm 2000 so với năm 1999 tăng 46,77% (9,4 ha); năm 2001 so với năm 2000 tăng 296,69% (86,64 ha) và bình quân 3 năm tăng 140,37%/năm. Diện tích đất trồng cây hang năm tăng nhanh là do huyện đang triển khai dự án trên toàn huyện và diện tích trống chè được lấy từ những quả đồi trọc của các xã: Phượng Mao,Trung Nghĩa, Yến Mao, Hoàng Xá, Đào Xá. Và diện tích này đến năm 2005 sẽ là 500 ha theo kế hoạch và dự án đề ra.
Với sự phát triển mạnh của huyện những năm qua và những năm tiếp theo khi mà các dự án của huyện được đưa vào thực hiện hết (dự án chè, dự án nuôi trồng thuỷ sản) thì các công trình thuỷ nông ngoài việc phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp của huyện, còn phải phục cho các dự án của huyện. Vì vậy đây chính là một khó khăn đòi hỏi khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông phải hợp lý để phát huy hết khả năng của công trình và phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp của huyện.
Thanh Thuỷ là một huyện mới được tách ra từ huyện Tam Thanh cũ nên cơ sở vật chất còn thiếu thốn rất nhiều. Vì vậy những năm qua trên địa bàn toàn huyện đã được đầu tư xây dựng rât nhiều công trình, từ đó làm cho quỹ đất chuyên dùng của huyện ngày càng tăng với tốc độ tăng bình quân 15,03%/năm. Hơn nữa, Thanh Thuỷ được xác định là vùng chậm lũ của quốc gia nên trong những năm tới quỹ đất chuyên dùng và quỹ đất cho thuỷ lợi còn tăng lên, đây cũng chính là nguyên nhân làm cho quỹ đất canh tác của huyện giảm.
Ngoài ra trên địa bàn huyện, diện tích đất canh tác còn khá lớn chiếm 35,71% (4.421,1 ha) năm 1999, 3% (4.209,96 ha) năm 2000 và 32,92% (4.076,74 ha) năm 2001. Diện tích này những năm qua tuy có giảm nhưng không đáng kể, trung bình một năm giảm 3,97%/năm. Diện tích đất chưa sử dụng này chủ yếu là các núi đá vôi, đồi trọc, và sông suối rất có lợi cho phát triển lâm nghiệp, Khai thác đá vảtồn cây công nghiệp dài ngày.Do quỹ đất cho nông nghiệp ngày càng tăng dẫn đến mức đất nông nghiệp bình quân hộ nông nghiệp cũng tăng lên trung bình 0,58%/năm. Và diện tích đất canh tác ngày càng giảm dẫn tới mức đất canh tác bình quân khẩu nông nghiệp ngày càng giảm, trung bình 2,31%/năm.
Qua sự giảm sút và tăng lên của các loại đất cho thấy tình hình sử dụng đất đai của huyên Thanh Thuỷ có rất nhiều biến động do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. Diện tích đất chuyên dùng ngày càng tăng, đặc biệt là đất thuỷ lợi cho thấy những năm qua huyện rất quan tâm đến phát triển thuỷ lợi - thuỷ nông.
Tóm lại, đất đai huyện Thanh Thuỷ còn nhiều tiềm năng lớn về khai hoang, tăng vụ, thâm canh tăng năng suất cây trồng nếu như công tác thuỷ lợi - thuỷ nông phục vụ tốt cho việc tưới tiêu của huyện. Công tác quản lý mặt bằng và chất lượng đất trong những năm qua từng bước được làm tốt đã góp phần khai thác sử dụng các loại đất đúng mục đích, tiết kiệm đất và có hiệu quả cao.
3.1.2.2. Tình hình dân số và lao động của huyện Thanh Thuỷ.
Cùng với đất đai thì nguồn lực con người là một trong những điều kiện không thể thiếu trong bất cứ sự phát triển nào. Dân số nhiều khi có tác động tích cực đến quá trình phát triển, nhưng nhiều lúc hạn chế quá trình phát triển.
Huyện Thanh Thuỷ với dân số năm 2001 là 74.817 người tương ứng với 16.497 hộ. Trong đó hộ nông nghiệp, khẩu nông nghiệp lần lượt chiếm 94,59% (15.604 hộ) và 94,59% (70.772 người). Qua số nhân khẩu và hộ nông nghiệp cho thấy, Thanh Thuỷ là một huyện thuần nông, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Qua biểu 2 ta thấy số hộ phi nông nghiệp qua các năm là quá nhỏ bé, tuy rằng mỗi năm số hộ này có tăng lên nhưng với tỷ lệ không cao, trung bình mỗi năm là 10,98%; năm 1999 chiếm 4,43% (725 hộ) đến năm 2001 chiếm 5,41% (893 hộ).
Thực hiện chủ trương sinh để có kế hoạch của Đảng và Nhà nước, Thanh Thuỷ mặc dù là một huyện miền núi nhưng nhận thức của người dân về sinh đẻ có kế hoạch là rất cao, số gia đình sinh con thứ ba giảm xuống, nhiều xã nhiều năm liền không có gia đình nào sinh con thứ ba như: Trung Nghĩa, Đồng Luận, La Phù. Tỷ lệ nhân khẩu nông nghiệp có xu hướng giảm xuống nhưng rất chậm, năm 2000 chiếm 94,95% đến năm 2001 chiếm 94,59%. Sự dịch chuyển nhân khẩu và lao động nông nghiệp của huyện sang các ngành phi nông nghiệp có xu hướng tăng lên; hộ phi nông nghiệp năm 1999 là725 hộ và lao động phi nông nghiệp là 1.599 người (chiếm 4,42%) thì đến năm 2001 số hộ phi nông nghiệp là 893 hộ (5,41%) và lao động phi nông nghiệp là 1.929 người ( chiếm 5,4%). Sự chuyển dịch này một mặt giải quyết việc làm cho người lao động, một mặt tăng thu nhập và quan trọng hơn là nâng cao trình độ lao động và đa dạng hoá ngành nghề cho phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH.
Chỉ tiêu đất canh tác bình quân một hộ nông nghiệp qua 3 năm đều giảm, do diện tích đất canh tác giảm. Vì vậy, cần khắc phục tình trạng này bằng việc áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, tăng diện tích gieo trồng, nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp nhằm giai quyết nhu cầu của người dân và tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hoá.
Chính sức ép của dân số về nhu cầu lương thực và các yêu cầu khác trong cuộc sống đòi hỏi khai thác và sử dụng công trình thuỷ nông có hiệu quả kinh tế để đáp ứng được các yêu cầu đó. Dân số của huyện chủ yếu là nông nghiệp nên trình độ thấp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình vận hành và sử dụng các công trình thuỷ nông, nhưng các công trình lại phục vụ cho chính họ nên ý thức bảo vệ các công trình của họ là rất cao. Đây chính là những lợi thế và khó khăn khai thác các công trình thuỷ nông sẽ gặp phải do sức ép dân số mang lại, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết hợp lý.
3.1.2.3 Hệ thống cơ sở vậtchất chủ yếu của huyện Thanh Thuỷ .
Cơ sở vật chất kỹ thuật là những phương tiện thể hiện sự phát triển của bộ mặt nông thôn của một địa phương. Cơ sở vật chất có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất và phát triển kinh tế của mỗi vùng, mỗi địa phương.
Thanh Thuỷ là một huyện miền núi, mới tái lập nên cơ sở vật chất còn thấp kém về mọi mặt.
Hệ thống điện có liên quan trực tiếp đến quá trình vận hành và sử dụng các công trình nông thôn để lấy nước cung cấp cho đồng ruộng và thoát nước khi bị úng. Trên địa bàn huyện năm 2001 có 21 trạm hạ thế và chỉ có 12/15 xã có điện lưới quốc gia. Tại các xã không có điện lưới hiệu quả khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông không cao vì chi phí bơm nước lớn. Cũng do không có điện mà thông tin chỉ đạo sản xuất của huyện xã đối với người dân không kịp thời.
Hơn nữa, cơ sở vật chất của huyện qua biểu 3 ta thấy còn thiếu thốn rất nhiều, không đáp ứng được mục tiêu CNH-HĐH nông thôn và gây cản trở sản xuất nông nghiệp của huyện. Số máy bơm nước lưu động dùng để bơm chuyển tiếp tới những nơi mà công trình thuỷ nông không tới được chỉ có 31 máy, máy cày...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
A Nghiên cứu phương pháp phẫu thuật và bước đầu đánh giá kết quả của phẫu thuật bảo tồn trong điều trị ung thư vú nữ tại bệnh viện k Y dược 0
T Bước đầu đánh giá công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) phục vụ cho dự án xây dựng các công trình cơ s Luận văn Kinh tế 0
B Bước đầu nghiên cứu vận dụng sản xuất sạch hơn tại Công ty Giầy Thượng Đình và đánh gía khả năng sin Luận văn Kinh tế 0
R Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Th Luận văn Kinh tế 0
B Bước đầu nghiên cứu, đánh giá tác động của khai thác và đổ thải lấn biển tại mỏ sắt Thạch Khê tới cá Môn đại cương 0
H Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm bước đầu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến phát Khoa học Tự nhiên 0
N Đánh giá bước đầu về hoạt động giáo viên sử dụng trong giờ dạy kĩ năng nghe hiểu cho học sinh lớp 10 Ngoại ngữ 0
T Đánh giá bước đầu hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Việt Hưng, Quận Long Biên, Hà Nội Luận văn Kinh tế 2
K 3. Nghiên cứu bước đầu chỉnh khớp cắn cho bệnh nhân có biểu hiện loạn năng bộ máy nhai và đánh giá l Tài liệu chưa phân loại 0
T Bước đầu đánh giá hiệu quả và tính an toàn của tocilizumab(actemra) phối hợp với methotrexat trong đ Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top