Download miễn phí Khả năng giảm lãi suất để cứu nền sản xuất





Dễ dàng nhận thấy rằng, nếu lợi nhuận bình quân của nền kinh tế chỉ khoảng 20%/năm và với mức lãi suất cho vay của ngân hàng ở mức gần 20%/năm thì trước hết thứ lãi suất đó sẽ bóp chế doanh nghiệp và xa hơn là bóp chết nền sản xuất trong nước và tiếp sau đó sẽ bóp chết NHTM (vì doanh nghiệp mới là người tạo ra lợi nhuận thực sự). Hiện tại nhiều ước tính cho rằng lợi nhuận của khu vực doanh nghiệp sản xuất chỉ khoảng 10-15%/năm thì mức lãi suất hiện nay thực sự là doanh nghiệp không thể chịu đựng được.
Một điều đáng quan ngại hiện nay là, khi lãi suất cao, người ta cứ đổ lỗi cho tại NHNN hay tại NHTM. Nhưng như trên đã phân tích cho thấy, nguyên nhân lãi suất cao không chỉ là lỗi của NHNN hay đơn thuận là do NHTM. Do đó, để giảm lãi suất thì mọi “nhà” (nhà nước, nhà băng, nhà doanh nhiệp ) cùng phải vào cuộc. Các nhà khoa học cũng phải đông thuận như vậy. Cụ thể:
*Nhà nước: Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc giảm mặt bằng lãi suất một cách bền vững. Cụ thể, nhà nước cần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, kiểm chế lạm phát ở mức vừa phải; đảm bảo ngân sách bền vững (thâm hụt ngân sách, chi tiêu, nợ công hợp lý;). Khi các yếu tố đó được đảm bảo, khu vực ngân hàng không bị sức ép và lãi suất khi đó sẽ được ổn định và đó là cơ sở cho việc duy trì lãi suất thấp.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Khả năng giảm lãi suất để cứu nền sản xuất
Thạc sỹ Lê Văn Hinh ( Hà Nội)
1- Đặt vấn đề.
2- Ai làm tăng lãi suất ?
3- Giảm lãi suất để cứu nền sản xuất, cứu doanh nghiệp
4- Đồng thuận, mặt bằng lãi suất giảm là tất yếu
1- Đặt vấn đề.
Thời gian dài, lãi suất huy động và lãi suất cho vay ở các NHTM Việt nam đã tăng lên rất cao.Với mặt bằng lãi suất cho vay của cao như vậy, doanh nghiệp sản xuất tỏ ra không chịu dựng nổi và có doanh nghiệp dự kiến cắt giảm đầu tư sản xuất … Trước tình hình này Chính phủ đã chủ trương chỉ đạo giảm mặt bằng lãi suất ngân hàng xuống mức thấp hơn và tập trung vốn cho khu vực sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên câu hỏi rằng liệu lãi suất ngân hàng có thể giảm được đến đâu và cơ sở để giảm lãi suất một cách bền vững và các nhà phải làm gì để giảm lãi suất.
2- Ai làm tăng lãi suất ?
Lý thuyết kinh tế và thực nghiệm chỉ ra rằng, lãi suất quá cao là có nguyên nhân cả vĩ mô và vi mô: có nguyên nhân từ phía ngân hàng, có nguyên nhân từ phía doanh nghiệp và có cả nguyên nhân từ các yếu tố kinh tế vĩ mô. Trong chừng mực nào đó có thể kể ra một vài nguyên nhân dưới đây:
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hiển nhiện nhận thấy rằng, cơ sở kinh tế quan trọng để đưa lãi suất xuống mức thấp là giảm lạm phát. Các nghiên cứu và trong thực tế chỉ ra rằng, trong trung hạn, để bảo toàn tài sản của mình không bị mài mòn bởi lạm phát, người gửi tiền và người cho vay đều phải đạt được mức lãi suất cao hơn mức lạm phát dự tính (lãi suất thực dương).
Diễn biến lạm phát gần đay ở Việt nam cho thấy,vấn đề lạm phát ít nhiều ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất.
- Ngoài ra, trên thị trường tiền tệ,lãi suất trái phiếu chính phủ lại có vai trò định hướng và là tín hiệu quan trọng cho lãi suất của các NHTM. Trong điều kiện bình thường, các NHTM thường coi lãi suất trái phiếu chính phủ làm mức chuẩn và qua đó để xác định lãi suất huy động hay cho vay của mình. Như vậy việc đảm bảo lãi suất trái phiếu chính phủ ở mức thấp chính là cơ sở của niềm tin đối với thị trường về mức lãi suất thấp.Việc lãi suất trái phiếu chính phủ gia tăng cũng phản ánh Chính phủ đã tham huy động nhiều trên thị trường tiền tệ. Khi chính phủ huy động quá mức và đầu tư không hiệu quả, hiệu ứng lấn át đầu tư cũng dẫn đến xu hướng tăng lãi suất.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khi NHNN cố gắng đưa ra lãi suất trần, nhưng nếu lãi suất trái phiếu chính phủ và lạm phát vẫn cao thì lãi suất trên thị trường vẫn ở mức cao.
Bảng 1: Tình hình đấu thấu trái phiếu chính phủ gần đây tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Ngày
Kỳ hạn
Khối lượng trúng thầu (ngàn tỷ VND)
Lãi suất trung thầu (%/năm)
Lãi suất thấp nhất
(%/năm)
Lãi suất cao nhất
(%/năm)
Lãi suất trần, trả cuối kỳ (%năm)
19/11/2009
3.0
-
-
10.9
10.9
9.7
19/11/2009
2.0
-
-
10.7
11.2
9.4
16/12/2009
3.0
-
-
-
-
10.8
16/12/2009
2.0
-
-
12.5
12.5
10.8
16/12/2009
5.0
10.0
10.8
10.5
11.0
10.8
21/1/2010
5.0
2.0
11.0
11.0
14.5
11.0
21/1/2010
2.0
-
-
11.8
13.0
10.8
4/2/2010
2.0
-
-
11.7
14.5
11.2
4/2/2010
5.0
-
-
12.0
12.0
11.3
4/3/2010
2.0
-
-
12.0
13.5
11.4
4/3/2010
3.0
-
-
13.0
14.0
11.5
Nguồn: Fitch Rating
- Kinh tế đầu cơ, bong bóng giá, quản trị thanh khoản của NHTM và lãi suất cao.Có rất nhiều bằng chứng mà quan sát thông thường cũng thấy, yếu tố đầu cơ đã dẫn đến tăng mặt bằng lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam (cho dù trực tiếp hay gián tiếp). Trong thời kỳ thị trường chứng khoán, nhà đất và vàng sôi động lãi suất trên thị trường tiền tệ đã tăng rất nhanh. Lãi suất thời gian 2007-2008 tăng chóng mặt bắt nguồn từ cuộc đua lãi suất huy động của các NHTM.
Thông tin không chính thức cho thấy, trong thời kỳ hoàng kim của chứng khoán và nhà đất, có NHTM đã cho vay nhà đất theo kiểu “tất tay” và đạt mức dự nợ cho vay bất động sản lên tới 70% dư nợ của ngân hàng. Trong khi nguồn vốn ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn của ngân hàng lên tới trên 80% (vốn dưới 1 năm). Trong thời kỳ này, nhiều NHTM đã dùng vốn vay từ thị trường 2 để cho vay nền kinh tế chứng tỏ ngân hàng hoạt động không chuyên nghiệp và cũng phản ánh tính kém bền vững của các NHTM.
Thực tế trong thời kỳ này, mức độ vay trên thị trường liên ngân hàng -thị trường 2 (xem Bảng 3) của các NHTM cũng rất cao; Khối NHTMCP có tỷ lệ vay thị trường 2 so với dư nợ cho vay đạt trên 50%; lãi suất qua đêm trong thời kỳ này cũng dễ gây sốc với mức trên 40%/năm . Điều đó chứng tỏ nguyên nhân lãi suất tăng có nguyên nhân ít nhiều từ phía NHTM. Trong thời kỳ 2007, người ta thấy rằng, do giá chứng khoán tăng chóng mặt thì người ta vay bằng mọi giá và trong thời kỳ chứng khoán giảm giá (2008) thì lãi suất cũng tăng mạnh thì lại la hậu quả của thời gian trước đó dẫn đến tình trạng ngân hàng thiếu thanh khoản.
Ngoài ra, cũng cần nhận định rằng trong thời kỳ này, trong khi NHTM nhỏ thiếu vốn, một số NHTM lớn (hay NHTMCP mới thành lập còn nhiều vốn) có ứng sử rất hay là chuyển rủi ro cho các NHTM nhỏ bằng cách hạn chế cho vay nền kinh tế mà chỉ cho vay qua các NHTM khác (theo nhiều cách khác nhau như gửi vốn, …) lấy lãi một cách rẩt “an nhàn”. Cách ứng xử này lại càng làm cho lãi suất thị trường có chiều hướng gia tăng.
Những tháng quý II và quý III năm 2009, người ta lại thấy diễn biến tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế cùng chiều rất rõ ràng với chỉ số và doanh số chứng khoán trên hai Sở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. Phản ánh của báo giới cho thấy, trong thời kỳ này, công cụ đòn bẩy tài chính lại hoạt động rất mạnh; Người ta cũng thấy, giới đầu cơ chứng khoán và đầu cơ bất động Dư nợ cho vay nền kinh tế và thị trường chứng khoán năm 2009
sản chấp nhận lãi suất rất cao lên tới 20% năm, trong khi khu vực doanh nghiệp sản xuất đơn thuần lại không thể nuốt được mức này vì họ cho rằng trong thời kỳ suy thoái thì sản suất khó đặt được lợi nhuận 20%/năm xét chung cả nền kinh tế ( ngoại trừ ngành khai thác tài nguyên ).
Đến nay, chưa có nghiên cứu nào chỉ ro rằng các yếu tố bong bóng giá, đầu cơ mạo hiểm và yếu tố quản lý thanh khoản (quản lý rủi ro) của các NHTM trong thời gian qua đã tham gia vào quá trình đẩy mặt bằng lãi suất cao ở Việt Nam, nhưng chắc chắn khó có ai bác bỏ hoàn toàn nguyên nhân từ các yếu tố này.
- Chi phí và ứng xử của NHTM làm lãi suất cho vay tăng. Có khá nhiều bằng chứng, chứng tỏ rằng chính cách ứng xử với tình hình khó khăn của NHTM Việt Nam đã làm lãi suất gia tăng. Khi khó khăn (suy thoái) các NHTM trong nước không cắt giảm chi phí ngân hàng mà trái lại lại tăng chi phí (như có NHTM một năm đã mở thêm tới 100 chi nhánh, kể cả dự kiến mở thêm chi nhánh nước ngoài; tăng lương, chia thưởng cho nhân viên một cách khá dễ dàng…). Các chi phí này đã được NHTM tìm mọi cách đẩy vào khách hàng dưới rất nhiều cách thức khác nhau bao gồm nân...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi nhằm giảm mặc cảm tự ti để nâng cao khả năng hòa nhập môi trư Văn hóa, Xã hội 0
M Khảo sát khả năng bảo quản rau IceBerg chế biến giảm thiểu Khoa học Tự nhiên 0
A Khảo sát các biện pháp xử lý chống nấm mốc đến khả năng bảo quản sản phẩm bưởi da xanh chế biến giảm Khoa học Tự nhiên 0
M Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng bảo quản sản phẩm bưởi da xanh chế biến giảm thiểu Khoa học Tự nhiên 2
P Thực trạng và giải pháp làm giảm khả năng sai sót trong tính toán thuế Luận văn Kinh tế 0
T Thực trạng và giải pháp làm giảm khả năng sai sót trong tính thuế Luận văn Kinh tế 0
T Hóa chất - thủ phạm gây giảm khả năng sinh sản Sức khỏe sinh sản 0
C Nghiên cứu tách thu hồi thuốc nhuộm dư trong nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng giảm thiểu Fo Khoa học Tự nhiên 0
N Đánh giá hiệu quả biện pháp kích cầu trong thời kì suy giảm kinh tế Việt Nam, khả năng ứng dụng kích Tài liệu chưa phân loại 0
N Nghiên cứu sự hút thu Cu, Pb, Zn và tìm hiểu khả năng sử dụng phân bón để giảm thiểu sự tích lũy chú Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top