Greely

New Member
Đề tài Kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay

Download miễn phí Đề tài Kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay





Nguyên nhân khách quan ở đây là do nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, lại gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh lớn: chống Pháp và chống Mỹ cho nên nhu cầu chi tiêu lớn trong khi nguồn thu ngân sách lại có hạn. Và vì vậy mà sự bành trướng cung ứng tiền tệ quá lớn (bằng cách in tiền) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu xã hội đã gây nên tình trạng lạm phát.
Nguyên nhân chủ quan do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư tăng không hợp lý làm cho sản xuất tăng chậm, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ đảm bảo 80-90% quỹ tiêu dùng xã hội. Trong khi lại phụ thuộc nhiều vài nước ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ của Liên Xô đã giảm đáng kể.
Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy mà nền kinh tế kém phát triển, luôn trong tình trạng mất cân đối, thâm hụt ngân sách cao. Do đó phải bù ngân sách bằng cách phát hành tiền quá mức cho phép gây nên tình trạng lạm phát lên tới mức 2-3 con số.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

oanh.
c. Siêu lạm phát
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, ở mức trên 300%. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh siêu lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới giá cả tăng từ một đến mười triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lưu thông tiền tệ, lưu thông hàng hoá gặp nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế trì trệ không thể phát triển được.
ở Việt Nam điển hình điển hình của loại siêu lạm phát là thời kỳ 1986-1988 lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
II. Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay.
Từ cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, sản xuất sút kém, giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là thời kỳ 1986-1988 nền kinh tế vẫn hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, hàng hoá sản xuất khan hiếm về số lượng, sút kém về số lượng nhưng nhu cầu lại rất cao, đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền nên tổng cầu luôn tăng vượt tổng cung, nên kinh tế luôn ở trạng thái mất cân bằng, lạmphát luôn ở mức 3 con số(năm1986 774% năm 1988 giảm xuống 308 %). Trong tình hình bất ổn định như vậy, lạm phát càng tăng cao thì lòng tin của người dân vào đồng tiền càng giảm sút. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách phải ổn định nền kinh tế chính phủ đã đưa ra hai thay đổi lớn trong lĩng vực tiền tệ đó là đưa tỷ giá hối đoái lên ngang giá thị trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương nhằm mục tiêu đưa lại giá trị thực cho đồng tiền Việt nam. Và kết quả là đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin trong nhân dân đối với đồng tiền. Từ đó các quan hệ thị trường đã được hình thành và làm cơ sở để từng bước mở rộng quan hệ hành hoá trên phạm vi quốc tế.
Đến giai đoạn 1989-1991, nền kinh tế chuyển hướng mạnh sang cơ chế thị trường , các chính sách đổi mới quản lý như thực hiện tự do hoá giá cả, thả nổi tỷ giá chính sách lãi suất, cắt giảm mạnh nhiều khoản chi tiêu ngân sách....Đặc biệt là cải cách chính sách thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác dụng tích cực trong việc mở rộng và tập trung kịp thời các nguồn thu cho ngân sách nhà nước, từ đó đã cắt nhanh được cơn sốt lạm phát cao (từ 308% năm 1988 xuống 68% năm 1991) và số thu trong năm 1991 so với 1990 là 32, 4 %.
Thời kỳ 1992-1995, nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đi dần vào thế ổn định. Chỉ số giá cả hành hoá và dịch vụ dao động xung quanh mức 12%/năm nhưng ta vẫn chưa có khả năng kiểm soát lạm phát theo mong muốn. Năm 1992, lạm phát ở mức 17, 5% đến năm 1993 thì giảm xuống còn 5,3% (trong khi mức dự kiến là từ 10-13%). Nguyên nhân của sự giảm phát này là do giữa năm 1993 hàng Trung Quốc tràn sang việt nam với giá cả rất rẻ so với hàng hoá nội địa và cũng do nền kinh tế nước ta đang trong xu hướng giảm phát. Đến năm 1994, trận lũ lụt ở ĐBSCL xảy ra gây tổn thất nặng nề đối với nền nông nghiệp nước ta đặc biệt là nguồn lúa, do vậy mà giá cả lương thực đã tăng vọt lên đồng thời giá thực phẩm cũng tăng cao, đẩy lạm phát tăng lên 14, 4%, và ảnh hưởng cả sang năm 1995.
Đến năm 1996, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một thời kì mới-công nghiệp hoá và dự kiến có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế để duy trì tốc độ tăng trưởng cao là mục tiêu đặc biệt coi trọng. Công cụ chủ yếu để kiềm chế lạm phát vẫn là thực thi một chính sách tiền tệ hợp lí: tăng lượng cung ứng tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Với các chính sách trên tỉ lệ lạm phát đã giảm xuống một cách đáng kể. Năm 1996, chỉ số lạm phát là 4, 5% được coi là mức thấp nhất kể từ 1987. Trong năm đã xuất hiện dấu hiện giảm phát (từ tháng 5 dến tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng đều mang dấu âm)... cụ thể là theo số liệu của tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 giảm 0, 6%, so với tháng 3/1997 đây là tháng thứ hai chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm. Trong đó nhóm hàng lương thực giảm phát triển nhất tới 2, 8%, giá thực phẩm giảm 1%, giá các nhóm hàng phi lương thực - lương thực tương đối ổn định. Giá vàng tiếp tục giảm 1, 1%, giá đô la lại taưng 1% so với tháng 3/1997.
Nhìn chung từ tháng 4 năm 1997 chỉ số giá tiêu dùng tăng 1, 6% so với tháng 4/1996 bình quân tăng 0, 13%/tháng. Đây là mức tăng thấp nhất so với 4 tháng đầu năm 1997. Và so với cả khoảng thời gian 12 tháng liên tục cùng kì của nhiều năm trước.
Với số liệu thực tế như vậy, một số nhà phân tích kinh tế đã đưa ra một vài nhận xét sau:
+Thể hiện sức mua xã hội, trong đó 80% là nông thôn giảm sút, quan hệ tỉ giá cánh kéo doãng ra bất lợi cho nông thôn, hàng hoá ứ đọng, thị trường kém sôi động, nhiều lĩnh vự sản xuất kinh doanh và hoạt động văn hoá - du lịch trầm hẳn xuống. Sang năm 1997 hiện tượng giảm phát lại xuất hiện ở 6 tháng đầu năm.
+ Xu hướng giảm phát này diễn ra từ tháng 3/1997 sớm hơn năm 1996 (vào tháng 5) và có nhiều k/n sẽ kéo dài trong những tháng tiếp theo. Do vậy thợc trạng giảm phát trên cần được đánh giá, phân tích một cách thận trọng nhằm hạn chế những tác động ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế cũng cho rằng, với chỉ số giá tiêu dùng tăng như trên, thông thường chỉ thích ứng với các nước có nền kinh tế phát triển. Còn đối với các nước chưa phát triển, nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn đầu tạo lập và phát triển nền kinh tế thị trường thì đó chưa hoàn toàn là nhân tố tích cực và phù hợp. Vậy nguyên nhân chính của tình hình trên là như thế nào?
Thứ nhất, trong những tháng đầu năm, nhiều mặt hàng nông sản bước vào thời kỳ thu hoạch chính vụ, lưu lượng trên thị trường dồi dào, song tiến độ mua vào mua vào hết sức chậm chạp đã làm cho giá các loại nông sản giảm khá nhanh và liên tục, chính nguyên nhân này đã góp phần làm cho sức mua của dân cư giảm rõ rệt, nhịp độ tăng trưởng diễn ra một cách trầm lặng. Hàng hoá nông sản chủ yếu ở đây là lúa, gạo và hạt điều thô vẫn nằm trong tình trạng khó tiêu thụ. Mà khó khăn chủ yếu là sự thiếu vốn cũng như đầu ra bị hạn chế của các cơ sở sản xuất và chế biến, xuất khẩu. Bởi trong khi chỉ số giá tiêu dùng trong 12 tháng liên tục (Từ tháng 4/1996 đến 4/1997) chỉ tăng 1, 6%, 4 tháng đầu năm tăng 1, 5%. Thế mà lãi suất vốn vay ngân hàng vẫn duy trì ở mức trên 1%/tháng. Như vậy liệu họ vay vốn làm ăn có mang lại hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán được hay không? Vì vậy hiện nay vẫn tồn tại một nghịch lí là ngân hàng thừa vốn với khối lượng lớn mà các doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng.
Thứ 2 là việc kiểm soát nhập khẩu còn th...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top