Te_Dien

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây nền kinh tế thế giới đã trải qua nhiều biến động mạnh mẽ với sự thay đổi thứ hạng các quốc gia trên bảng xếp hạng các cường quốc trên thế giới. Khu vực Đông Nam Á được đánh giá khá cao với tư cách là một khu vực có nền kinh tế phát triển khá năng động. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển với một môi trường chính trị ổn định, đặc biệt khi tham gia vào sân chơi chung thế giới thì cơ hội đón nhận đầu tư của Việt Nam càng mở rộng. Khi tốc độ phát triển càng nhanh, sự chuyển động của nền kinh tế càng lớn thì rủi ro các doanh nghiệp phải đối mặt càng cao, để tạo ra môi trường minh bạch, hạn chế rủi ro thì nhu cầu hỗ trợ của dịch vụ kiểm toán - tư vấn ngày càng cần thiết. Trong bối cảnh đó, các công ty kiểm toán tại Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều với cách thức hoạt động ngày càng chuyên nghiệp để làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Là một trong những công ty kiểm toán nước ngoài đầu tiên có mặt tại Việt Nam và lại là một trong 4 công ty kiểm toán hàng đầu trên thế giới, Công ty TNHH KPMG Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của kiểm toán tại Việt Nam, giúp cho thị trường tài chính Việt Nam ngày càng trở nên minh bạch hơn. Với phương châm “chiến lược toàn cầu, am hiểu địa phương”, luôn nỗ lực cung cấp cho khách hàng các dịch vụ với chất lượng tốt nhất, vị trí và danh tiếng của công ngày càng được khách hàng khẳng định trên thị trường kiểm toán và tư vấn tại Việt Nam.
Trong khi khách hàng tăng lên cả về số lượng và các lĩnh vực kinh doanh, người sử dụng BCTC tăng lên làm cho rủi ro kiểm toán cao hơn, cạnh tranh trong lĩnh vực kiểm toán cũng tăng cao thì việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cao hiệu quả cạnh tranh luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại công ty. Trong đó, giải pháp về việc hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro được KPMG đánh giá rất cao, bởi lẽ đây là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định hiệu quả, chất lượng cuộc kiểm toán. Một qui trình tốt sẽ giúp KTV xây dựng được kế hoạch, chương trình kiểm toán hiệu quả, giảm thiểu rủi ro đạt được kết quả tối ưu với mức chi phí cạnh tranh. Đặc biệt là trong kiểm toán chu trình bán hàng-thu tiền, đây là một chu trình rất phức tạp có vị trí quan trọng bởi khoản mục doanh thu là một chỉ tiêu cực kỳ quan trọng trong Báo cáo kết quả kinh doanh. Kết quả của chỉ tiêu này được rất nhiều đối tựong quan tâm và sẽ là một trong các chỉ tiêu ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Chu trình này đòi hỏi phải được thực hiện bởi kiểm toán viên kinh nghiệm, giỏi về chuyên môn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, là một sinh viên năm cuối chuyên ngành kiểm toán đang trong quá trình thực tập kiểm toán tại công ty TNHH KPMG, đây là khoảng thời gian hữu ích tìm hiểu về thực tế tổ chức kiểm toán tại công ty để trợ giúp cho quá trình làm việc sau này, trong Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình về công ty em đã tập trung tìm hiểu và hoàn thành đề tài: “Tìm hiểu qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện ” .
Nội dung báo cáo của em gồm 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu, rủi ro và qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chung và trong kiểm toán chu trình chu trình bán hàng-thu tiền
Phần 2: Thực tế đánh giá và áp dụng qui trình đánh giá rủi ro, trọng yếu trong kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền do công ty KPMG Việt Nam thực hiện
Phần 3: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền tại công ty TNHH KPMG Việt Nam




PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU, RỦI RO VÀ QUI TRÌNH
ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN CHUNG VÀ TRONG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG-THU TIỀN

.1. Cơ sở lý luận của qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro
1.1.1. Khái niệm trọng yếu, rủi ro và các vấn đề có liên quan
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro và các vấn đề có liên quan
Nghĩa thuần của rủi ro được xác định trong từ điển Tiếng Việt là “Rủi ro là tính từ chỉ sự không may xảy ra” hay “rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Như vậy, rủi ro là điều không mong muốn xảy ra và trong các lĩnh vực khác nhau thì rủi ro lại thể hiện ở các góc độ khác nhau.
Rủi ro là một khái niệm rất quan trọng trong lĩnh vực kiểm toán. Để thực hiện kiểm toán thì chắc chắn KTV phải hiểu được những rủi ro có thể xảy ra trong kiểm toán thì mới xây dựng được chương trình kiểm toán với các thủ tục thích hợp để kiểm soát và hạn chế rủi ro xảy ra.
Trong kiểm toán, KTV quen thuộc với rất nhiều khái niệm rủi ro như rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện… , trong số đó một khái niệm chung nhất mà KTV quan tâm chính là rủi ro kiểm toán.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán IAG số 25- “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” thì rủi ro kiểm toán được định nghĩa: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ, KTV xó thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần về một BCTC mà không biết rằng báo cáo này có những sai phạm nghiêm trọng”.
Tham khảo chuẩn mực của thế giới, Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng đã đề cập đến khái niệm rủi ro kiểm toán trong chuẩn mực số 400- “Đánh giá về rủi ro kiểm toán và kiểm soát nội bộ” với nội dung “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra kiến nhận xét không thích hợp khi BCTC được kiểm toán còn có nhiều sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gồm 3 bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”. Có thể khái quát lại, rủi ro kiểm toán là rủi ro KTV đưa ra ý kiến không xác đáng về BCTC.
Để hiểu được rủi ro kiểm toán thì cần đi sâu vào phân tích từng yếu tố cấu thành của rủi ro kiểm toán. Xác định các nhân tố cấu thành rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa các nhân tố này, văn bản SAS 39 về chọn mẫu kiểm toán và SAS 47 về tính trọng yếu rủi ro đã đưa ra mô hình rủi ro kiểm toán:
DAR= IR x CR x DR
Với DAR: Disired audit risk
IR: Inherent risk – Rủi ro tiềm tàng
CR: Control risk
DR: Detection risk
Sau đó mô hình này đã được rất nhiều văn bản sau đó đề cập đến.
Thứ nhất là, rủi ro tiềm tàng. Rủi ro tiềm tàng là rủi ro BCTC tồn tại các sai phạm trọng yếu mà chưa tính đến tác động của các thủ tục được thiết kế bởi hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) của khách hàng. Theo IAG số 25 – “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hay của một loại ngiệp vụ khác (ở đây giả định là không có các qui chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng như trong bản chất của số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ ”.
Trong hệ thống chuẩn mực của Việt Nam cũng đề cập đến khái niệm về rủi ro tiềm tàng như sau: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn vốn có khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hay tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Như vậy rủi ro tiềm tàng chính là rủi ro xảy ra do bản chất của hoạt động kinh doanh của khách hàng, tính liêm chính của Ban Giám đốc, tính nhạy cảm với sự tham ô, qui mô của khách hàng, các nghiệp vụ kinh tế thường xuyên, … Đối với loại rủi ro này, KTV không thể thay đổi được mà chỉ có thể tìm hiểu và đánh giá để đảm bảo đã nhận biết được hết.
Thứ hai là , rủi ro kiểm soát. Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG số 25 qui định: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro do xác định, có thể xảy ra với một số dư tài khoản hay một loại nghiệp vụ và có thể là sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra đơn lẻ hay có thể kết hợp với các sai sót của các số dư\, các nghiệp vụ khác mà hệ thống KSNB đã không ngăn chặn hay không phát hiện kịp thời. Rủi ro kiểm soát sẽ luôn xuất hiện và khó tránh khỏi vì những hạn chế có tính bản chất của bất cứ hệ thốn KSNB nào”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro kiểm soát nội bộ”, mục 05 qui định: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hay tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống KSNB không ngăn ngừa hết hay không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Như vậy rủi ro kiểm soát xảy ra là do hệ thống KSNB của khách hàng đã không thiết kế đầy đủ các thủ tục kiểm soát hữu hiệu để ngăn chặn rủi ro xảy ra, hay hệ thống KSNB được thiết kế là hữu hiệu nhưng việc áp dụng các thủ tục này trong thực tế chưa tốt nên không kiểm soát được sai sót. Một phần khiến cho rủi ro này luôn có khả năng tồn tại là do những hạn chế cố hữu của hệ thống KSNB, các sai phạm xảy ra thì thường rất tinh xảo và luôn thay đổi, trong khi hệ thống KSNB thì cần xác định được rủi ro trước rồi thì mới có thể thiết kế thủ tục kiểm soát được. Chính vì vậy mà hệ thống KSNB sẽ có độ trễ nhất định so với sai phạm. Với loại rủi ro này KTV cũng không thể thay đổi được mà chỉ có thể đánh giá để trên cơ sở đó thiết lập các thủ tục kiểm toán cơ bản thích hợp.
Thứ ba là, rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện là rủi ro KTV thực hiện các thủ tục kiểm toán không thích hợp dẫn đến không phát hiện ra các sai phạm còn tồn tại trên BCTC dẫn đến đưa ra ý kiến không thích hợp về BCTC được kiểm toán.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG số 25 có qui định: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà KTV không phát hiện ra các sai sót hiện có trong số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hay có thể kết hợp với các sai sót trong các số dư, các loại nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro có thể phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của KTV ”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”, mục 06 ghi: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hay tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán không phát hiện được.”
Rủi ro phát hiện có thể được phân chia theo rủi ro do thực hiện thủ tục phân tích không phù hợp, hay rủi ro do thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết không phù hợp; hay rủi ro chia theo rủi ro do chọn mẫu không đại diện. Rủi ro phát hiện là rủi ro mà KTV có thể chủ động kiểm soát được dựa trên thiết kế các thủ tục kiểm toán.
Giữa 3 yếu tố rủi ro này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau được thể hiện trong mô hình trình bày ở trên. Trong khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là cố định, KTV chỉ có thể đánh giá chứ không thể thay đổi, thì rủi ro phát hiện là rủi ro KTV cần điều chỉnh và kiểm soát để đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Mức rủi ro kiểm toán chấp nhận được là mức rủi ro đã được xác định từ trước, ấn định từ khi lập kế hoạch kiểm toán. Ứng dụng của mô hình trên chính là từ mức rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV sẽ xác định rủi ro phát hiện để đảm bảo rủi ro kiểm toán có thể kiểm soát ở mức mong muốn. Việc xác định như sau:

Rủi ro phát hiện được thực hiện sau khi KTV đã đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Dựa trên đánh giá về hệ thống KSNB của khách hàng , nếu như hệ thống này tốt thì rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp, khi đó DR sẽ cao KTV sẽ giảm các thử nghiệm cơ bản phải thực hiện mà rủi ro phát hiện vẫn ở mức thấp và ngược lại.
1.1.1.2. Khái niệm trọng yếu và các vấn đề có liên quan
Cũng giống như rủi ro, trọng yếu là một yếu tố quan trọng trong kiểm toán. Để hiểu được khái niệm “trọng yếu” trong kiểm toán, trước hết hãy xem “trọng yếu” được định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt, theo đó “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý nghĩa quan trọng ”. Như vậy, trọng yếu trong Tiếng Việt mang ý nghĩa chỉ sự quan trọng của đối tượng nó đi kèm, trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu mang một ý nghĩa cụ thể riêng.
Trong lĩnh vực kiểm toán kiểm toán nói chung, trọng yếu là một khái niệm hết sức quan trọng cùng với khái niệm rủi ro và bằng chứng kiểm toán đã trở thành nền tảng cho mọi quá trình kiểm toán, đây là thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên trong suốt cuộc kiểm toán. Trong bản công bố về chuẩn mực kiểm toán số 47 (SAS 47) đã khẳng định: “Kiểm toán viên nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm toán”. Chính vì vậy, khái niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều hệ thống chuẩn mực, tài liệu chuyên ngành trong nước cũng như quốc tế.
Văn bản chỉ đạo kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25), do Liên đoàn kế toán Quốc tế soạn thảo và công bố, đã đưa ra định nghĩa: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hay là đơn lẻ hay là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hay là sẽ rút ra kết luận sai lầm”.
Chuẩn mực kiểm toán số 320 (ISA 320) về “Tính trọng yếu trọng yếu trong kiểm toán” cũng đưa ra định nghĩa: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hay sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hay sai sót đó. Vì thế tính trọng yếu là một ngưỡng hay một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần có”.
Dựa vào chuẩn mực quốc tế, hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng đề cập đến khái niệm trọng yếu trong chuẩn mực số 320 (VSA 320) “Tính trọng yếu trong kiểm toán” như sau: “ Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính”. Như vậy, định nghĩa trọng yếu theo hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam đã chỉ ra sự phụ thuộc của tính trọng yếu vào bản chất của các khoản mục, thông tin và đã phần nào đề cập đến mối quan hệ về mặt lượng giữa tính trọng yếu với độ lớn của thông tin bị bỏ sót hay thiếu chính xác.
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU, RỦI RO VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN CHUNG VÀ TRONG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG-THU TIỀN 3
1.1. Cơ sở lý luận của qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro 3
1.1.1. Khái niệm trọng yếu, rủi ro và các vấn đề có liên quan 3
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro và các vấn đề có liên quan 3
1.1.1.2. Khái niệm trọng yếu và các vấn đề có liên quan 7
1.1.2 .Qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro được xây dựng và áp dụng nói chung 12
1.1.2.1. Qui trình đánh giá rủi ro 12
1.1.2.2. Qui trình đánh giá trọng yếu 13
1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu với rủi ro kiểm toán và bằng chứng kiểm toán 20
1.2. Đặc điểm của chu trình bán hàng-thu tiền với đánh giá trọng yếu rủi ro 21
1.2.1. Chức năng, vai trò của chu trình bán hàng-thu tiền trong cuộc kiểm toán 21
1.2.2. Đặc điểm của chu trình bán hàng-thu tiền cần quan tâm khi thực hiện đánh giá trọng yếu-rủi ro 22
1.2.2.1. Đặc điểm của khoản mục doanh thu 22
1.2.2.2. Khoản phải thu khách hàng 23
PHẦN 2: THỰC TẾ ĐÁNH GIÁ VÀ ÁP DỤNG QUI TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO, TRỌNG YẾU TRONG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG – THU TIỀN DO CÔNG TY TNHH KPMG VIỆT NAM THỰC HIỆN 25
2.1. Qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro được áp dụng trong kiểm toán chu 25
trình bán hàng và thu tiền trong các doanh nghiệp sản xuất được xây dựng và áp dụng tại công ty TNHH KPMG Việt Nam 25
2.1.1.Qui trình đánh giá rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền do KPMG thực hiện 25
2.1.1.1. Qui trình đánh giá rủi ro của khoản mục doanh thu 26
2.1.1.2. Qui trình đánh giá rủi ro của khoản mục phải thu khách hàng 31
2.1.2.Qui trình đánh giá trọng yếu của chu trình bán hàng – thu tiền được xây dựng và áp dụng tại KPMG 32
2.1.2.1. Xác định cơ sở thích hợp cho việc định lượng mức trọng yếu 32
2.1.2.2.Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu 35
2.1.2.3. Xác định ngưỡng sai phạm trọng yếu 38
2.1.2.4.Ước tính tổng sai phạm đối với khoản doanh thu và phải thu 39
2.2. Qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền được công ty TNHH KPMG xây dựng và thực hiện tại doanh nghiệp A và doanh nghiệp B 42
2.2.1. Qui trình đánh giá rủi ro được thực hiện trong thực tế tại Doanh nghiệp A và Doanh nghiệp B 42
2.2.1.1. Qui trình dánh giá rủi ro được thực hiện đối với doanh nghiệp A 42
2.2.1.2. Qui trình dánh giá rủi ro được thực hiện đối với doanh nghiệp B 59
2.2.2. Qui trình đánh giá trọng yếu được thực hiện trong thực tế tại Doanh nghiệp A và B 66
2.2.2.1. Qui trình thực hiện đánh giá trọng yếu tại Doanh nghiệp A 66
2.2.2.1. Qui trình thực hiện đánh giá trọng yếu tại Doanh nghiệp B 72
2.3. Tổng kết qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền được thực hiện bởi công ty KPMG Việt Nam 77
Phần III: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG - THU TIỀN TẠI CÔNG TY TNHH KPMG VIỆT NAM 79
3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền do công ty kiểm toán KPMG thực hiện 79
3.1.1. Định hướng phát triển của công ty 79
3.1.2. Vai trò của qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro đối với kiểm toán BCTC nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền nói riêng 81
3.2. Ưu điểm và nhược điểm trong qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền do công ty thực hiện 82
3.2.2 Hạn chế, tồn tại 85
3.3. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền tại công ty kiểm toán KPMG Việt Nam 87
3.3.1. Sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và các cơ quan chức năng 87
3.3.2. Các giải pháp hoàn thiện đối với công ty 88
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90

3.3.1. Sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và các cơ quan chức năng
Mặc dù các cuộc kiểm toán được tiến hành theo những qui trình chung của mạng lưới KPMG toàn cầu. Tuy nhiên, những đặc điểm về kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là những điều kiện liên quan đến khía cạnh pháp lí vẫn chưa thực sự tạo được môi trường thuận lợi cho ngành kiểm toán phát triển. Môi trường pháp lý cần tạo ra thống nhất và rõ ràng cho cả hoạt động của khách thể kiểm toán và chủ thể kiểm toán. Khi thực hành kiểm toán tại các doanh nghiệp, do các qui định đặt ra chưa thống nhất nên kế toán tại các khách thể kiểm toán nhiều khi rất phức tạp, kiểm toán viên phải nắm bắt được hết các qui định tại từng thời điểm mới xác định được việc hạch toán là đúng hay sai. Nhiều khi phát sinh những tình huống mà thực tế lại không có hướng dẫn cụ thể nên kế toán cũng chưa biết xử lý nghiệp vụ thế nào và kiểm toán cũng khó đưa ra điều chỉnh. Do vậy, chính phủ cũng như Bộ Tài Chính Việt Nam cần nhanh chóng cho ra đời Luật kế toán, ban hành các văn bản pháp lý về quản lý để đảm bảo hoạt động thành lập công ty kiểm toán, quản lý các công ty kiểm toán, hoạt động kiểm toán được quy định rõ ràng, đầy đủ, không có sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp lý và giữa văn bản pháp lý với thực tiễn hoạt động
Ngoài ra, Bộ Tài chính sớm xây dựng cơ chế giám sát chất lượng dịch vụ của KTV và công ty kế toán, kiểm toán. Đồng thời, Cần tăng cường vai trò của Hội Kế toán Việt Nam (VAA)và Hội KTV hành nghề Việt Nam (VACPA) đối với công tác quản lý hoạt động kiểm toán như đã nêu trong trong điều lệ của Hội. Hiện nay, Hội Kế toán Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 76 của IFAC và là thành viên thứ 7 của Hiệp hội Kế toán Đông Nam Á (AFA ). Tuy nhiên kết quả hoạt động của Hội vẫn còn hạn chế, chưa xứng với tiềm năng của Hội cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới, hội nhập. Hiệp hội Kế toán - kiểm toán Việt Nam phải trở thành hạt nhân liên kết, hợp tác các công ty kiểm toán để nhân sức mạnh của ngành kiểm toán độc lập Việt Nam.
3.3.2. Các giải pháp hoàn thiện đối với công ty
Thứ nhất, hoàn thiện phân bổ mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC nói chung và cho khoản mục doanh thu và phải thu nói riêng.
Đây là công việc rất cần thiết bởi lẽ cuộc kiểm toán được thực hiện theo những phần hành cụ thể và thu thập những bằng chứng kiểm toán theo phần hành đó. Do vậy, việc phân bổ mức trọng yếu một cách thích hợp cho mỗi phần hành sẽ rất hữu ích không chỉ cho chu trình bán hàng – thu tiền mà sẽ tạo hiệu quả cho kiểm toán tất cả các phần hành trên BCTC.
Việc phân bổ mức trọng yếu ban đầu cho khoản mục doanh thu và phải thu khách hàng cần được chú trọng hơn, công ty cần xây dụng các qui định hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện phân bổ. Đồng thời, khi phân bổ ước lượng, KTV cần căn cứ vào các cơ sở như: mức trọng yếu được ước lượng cho toàn bộ tổng thể, bản chất và qui mô của số dư khoản mục, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục, kinh nghiệm của KTV… và đặc biệt chú ý tới yếu tố chi phí kiểm toán.
Thứ hai, cần nâng cao hiệu quả sử dụng của hệ thống lưu đồ trong việc đánh giá rủi ro kiểm soát.
Mặc dù hiện nay, hệ thống lưu đồ đã được sử dụng trong một số cuộc kiểm toán, tuy nhiên, số lượng KTV sử dụng vẫn còn ít. Với sự hiệu quả của việc sử dụng lưu đồ, nó nên được sử dụng nhiều trong các cuộc kiểm toán đặc biệt là đối với các khách hàng có hệ thống kiếm soát nội bộ phức tạp. Hơn nữa, để đạt được hiệu quả tốt nhất, KTV cần kết hợp việc sử dụng các phương pháp miêu tả khác nhau gồm bảng tường thuật, bảng câu hỏi và lưu đồ.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top