quang_binh80

New Member
Download Đồ án Công tác quản lý thu, chi quỹ Bảo Hiểm Xã Hội

Download miễn phí Đồ án Công tác quản lý thu, chi quỹ Bảo Hiểm Xã Hội





MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về bảo hiểm xã hội
I. Bản chất của bảo hiểm xã hội
II. Đối tượng BHXH
III. Chức năng của BHXH
IV Quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội
1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng
nhất trong chính sách BHXH.
2. Người sử dụng lao phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người
lao động.
3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với
BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp.
4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH.
V. Quỹ bảo hiểm xã hội
Chương II: Các giai đoạn phát triển của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
I. Giai đoạn 1961-1995
1. Giai đoạn khởi đầu sự phát triển của BHXH ở nước ta
. Đánh giá chung chính sách bảo hiểm xã hội giai đoạn từ tháng 1961 đến 1/1995
II. Chính sách bảo hiểm xã hội giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Chương III: Một số quy định của nhà nước
I. Quy định của nhà nước về thu
II. Thực trạng về thu BHXH
III. Tình hình chi trả BHXH của việt nam hiện nay.
1. Một số quy định của nhà nước về chi trả BHXH
2. Thực trạng chi BHXH ở Việt Nam.
3. Những tiêu cực phát sinh trong quá trình chi trả.
Chương IV: Một số kiến nghị để ổn định quỹ BHXH
I. Kiến nghị về hỗ trợ ngân sách Nhà nước
II. Kiến nghị về chế độ chính sách:
III. Kiến nghị về công tác quản lý quỹ BHXH
IV. Tăng cường công tác đầu tư, tăng trưởng quỹ BHXH
Kết luận
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

g, người sử dụng lao động và nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH phải đảm bảo các nguyên tắc : cân đối thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức :
P = f1 + f2 + f3
Trong đó : P- Phí BHXH
f1- Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
f2- Phí dự phòng
f3- Phí quản lý
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho tất cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn ( thường là 1 năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ. Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như : hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp nặng quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng trợ cấp BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, để xác định được mức phí phải đóng góp và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính, ngành nghề. Ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau tai nạn, tử vong của người lao động.
CHƯƠNG II:
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM
XÃ HỘI VIỆT NAM
I. GIAI ĐOẠN 1961-1995
Giai đoạn khởi đầu sự phát triển của BHXH ở nước ta
Sau ngày hoà bình lặp lại, từ năm 1960, sau khi hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội miền Bắc bước vào kế hoạch dài hạn 5 năm lần thứ nhất. Lực lượng công nhân viên chức lúc này càng ngày tuyển dụng càng đông hơn để phục vụ cho yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hôị ở miền Bắc, trước tình này, Nhà nước cần thiết phải bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với tình hình và đáp ứng được mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống cho công nhân viên chức. Vì vậy, ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời theo Nghị định số 218/Chính về các chế độ bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức nhà nứoc. Điều lệ quy định:
+ Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang.
+ Đã hình thành nguồn để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội trong ngân sách Nhà nước. Nguồn hình thành trên cơ sở đóng góp của xí nghiệp, còn lạI do ngân sách nhà nước cấp. Mức đóng góp của các xí nghiệp là 4,7% so với tổng quỹ lương. Trong đó 1% để chi cho các chế độ dài hạn và 3,7% chi cho 3 chế độ ngắn hạn. Đối với phần ngân sách Nhà nước, hàng năm Quốc hội thông qua ngân sách cấp cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước.
+ Áp dụng 6 chế độ xã hội là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu chí, và tử tuất cho công nhân viên chức.
Tiếp đến, ngày 18/9/1985, cùng với việc cải tiến chế độ tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc bổ sung, sửa đổi chế độ bảo hiểm xã hội cho công nhân chức Nhà nước và lực lượng vũ trang trong giai đoạn này thể hiện những vấn đề trọng tâm là:
Thứ nhất, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang. Lực lượng này đến năm 1985 chiếm khoảng 12% lực lượng lao động xã hội. Còn lại 88% lao động làm việc ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài quốc doanh chưa được tham gia.
Thứ hai, nguồn tài chính để thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội một phần do các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng và còn lại do ngân sách nhà nước cấp. Mức đóng theo quy định Nghị định số 218/CP và 4,7% nay được nâng lên 13%so với tổng quỹ lương của xí nghiệp. Trong đó, Bộ Lao động -Thương Binh và Xã hội được giao quản lí 8% để chi trả 3 chế độ mất sức lao động, hưu trí, và tử tuất, còn lại 5%do Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam quản lý để chi trả 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn, lao động và bệnh nghề nghiệp. Mặc dù, Nghị định 236/ HĐBT quy định khá chặt chẽ trách nhiệm của xí nghiệp, nhưng thời gian này do các đơn vị sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ, nên hầu hết nộp thiếu hay không nộp được dẫn đến tình trạng thu không đủ chi, phần ngân sách nhà nước cấp năm sau cao hơn năm trước. Đến năm 1993 trở đi, Ngân sách nhà nước cấp bù tới 92,7% trong tổng số tiền chi bảo hiểm xã hội (xem Bảng 1)
Bảng 1: Ngân sách Nhà nước cấp để chi bảo hiểm xã hội
Năm
Doanh nghiệp đóng để chi bảo hiểm xã hội
Ngân sách nhà nước cấp để chi bảo hiểm xã hội
1964
95,3%
4,7%
1968
45,2%
54,8%
1970
29,7%
70,5%
1980
15,8%
84,3%
1990
26,18%
73,92%
12/1993
7,3%
92,7%
Như vậy, có thể thấy do cơ chế tạo nguồn chưa được xác định rõ ràng nên quỹ bảo hiểm xã hội chưa được tính đúng, tính đủ, làm cho thu không đủ chi, ngân sách nhà nước phải càng lớn.
Thứ ba, về tổ chức quản lý trước năm 1986 theo hành chính nhà nước do bộ Thương binh và xã hội theo hệ thống quản lý 3 cấp : Ở Trung ương đơn vị tài chính cấp 1 của bộ tài chính cấp 1 của bộ và Vụ kế hoạch tài chính có nhiệm vụ tổng hợp, cấp phát và quyết đoán từ ngân sách nhà nước cấp với các đơn vị tài chính cấp 2 là Sở Lao Động -TBXH tỉnh và sau đó Sở quyết toán với đơn vị tài chính cấp 3 trực thuộc trên cơ sở quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ tài chính cấp hàng năm.
Thứ tư, theo nghị định 236/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng, thì trong chính sách bảo hiểm xã hội có 6 chế độ áp dụng cho người lao động trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động hay chết. Đối với lao động làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại, làm việc ở những vùng xa xôi hẻo lánh, nơi hải đảo và lược lượng vũ trang chiến trường được quan tâm, ưu tiên trong việc tính thời gian công tác, như: quy định quy đổi thời gian công tác 1 năm làm việc thực tế được tính 1 năm 2 tháng để nghỉ hưu ( nếu lao động nặng nhọc, độc hại ), tính thành 1 năm 4 tháng ( nếu làm việc ở vùng xa xôi hẻo lánh ) hay tính thành 1 năm 6 tháng ( nếu trực tiếp chiến đấu ở chiến trường gian khổ).
Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội được tính theo tỷ lệ(%) trên mức lương cơ bản trước khi nghỉ hưu. Mức lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm công tác và đủ 25 năm công tác được tính bằng 75% lương chính và các khoản phụ cấp theo lương, sau đó cứ 1 năm làm việc thêm được tính thêm 1% tối đa lương hưu được hưởnglà 95%lương chính và các khoản phụ cấp (nếu có).
Riêng đối với chế độ mất sức lao động hàng tháng được quy định để áp dụng cho công nhân viên c...
 
Top