[email protected]
New Member
Download Luận văn Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam
Hiện na y n gười nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà ph ê
ở xã, hu y ện các tỉnh Tâ y Ngu yên . Đây là hình thức mua bán xuất hiện cách na y
chục năm và được xem là phương th ức mua bán ha y h ơn hẳn so với phươn g thứ c
tru y ền thống “tiền trao cháo múc”. Ký gửi được xem là “h iện đại” hơn cách mua
b án cũ vì các đại lý kinh doanh cà ph ê xây dựn g được kho chứa, có vốn lớn để khi
cần thì mua một lú c cà phê của nhiều hộ nôn g d ân. Còn nôn g d ân , tha y vì th u ho ạch
và bán ngay cho đ ại lý như trước với b ất kỳ mức giá n ào của ngà y hôm đó, thì
phươn g thức n ày cho phép nông dân đưa cà ph ê tới kho của đại lý như hình thức
tạm trữ , đồng thời được tạm ứn g một khoản tiền đ ể n gười nông d ân tran g trải được
n ợ nần. Nông dân theo dõ i diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấ y giá
b án có lợi, thì họ sẽ đến gặp thư ơng lái chốt giá bán, và lấ y tiền
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-10-24-luan_van_timhieu_thuctrang_kinh_doanh_capheov.k8fIa9cGVE.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-42063/
Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
chế biến thế giới nên trong phần này chúng ta sẽ chỉ tập trung vào tìm hiểu quá trình
giao dịch cà phê nhân từ khi thu hoạch cho đến khi xuất đi thị trường nước ngoài để
thấy được những tồn tại của nó làm cơ sở tìm ra những giải pháp thích hợp để giảm
bớt ảnh hưởng của sự biến động giá cả đối với ngành này.
31
Sơ đồ 2.1: Quy trình kinh doanh cà phê ở Việt Nam hiện nay
Quy trình từ sản xuất đến xuất khẩu cà phê có 3 chủ thể chính tham gia:
Nông dân sản xuất nhỏ
(chiếm 80% diện tích
trồng cà phê)
Cà phê nhân xô
Sơ chế tại đại lý
(làm sạch, phân loại
cho xuất khẩu)
Sơ chế lại tại các doanh
nghiệp xuất khẩu
Doanh nghiệp chế biến cà phê
rang xay
(5% tổng sản lượng sản xuất)
Thị trường nội địa Thị trường quốc tế
Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê
nhân
(95% tổng sản lượng sản xuất)
Đại lý thu mua,
ký gửi cà phê
Cà phê nhân xô
Nông dân
trồng cà phê
Thương lái,
đại lý, thu
mua cà phê
Doanh nghiệp
xuất khẩu
cà phê
Nông trường và trang trại
(chiếm 20% diện tích
gieo trồng)
32
v Người nông dânà thương lái, đại lý thu mua cà phê
§ Về sản phẩm:
Có một nghịch lý: cà phê robusta Việt Nam chất lượng vào loại cao trên thế
giới, kể cả so với Indonesia nhưng lại thường phải bán giá thấp hơn cà phê cùng loại
của nước này. Sở dĩ như vậy vì người nông dân còn nhiều thiếu sót trong khâu thu
hái, sơ chế, phân loại và bảo quản.
Với giá nhân công tăng lên trong những năm gần đây, người nông dân
thường lựa chọn phương pháp tuốt hơn là hái từng quả, vì thế chất lượng quả cà phê
bị ảnh hưởng, đồng thời thu hoạch luôn cả quả xanh để đỡ bị mất trộm, giảm được
công hái (vì chỉ hái một lần là xong), phơi sấy một lúc, tiết kiệm được chi phí và
điều quan trọng nhất là vẫn bán được, vẫn có người mua, tuy giá có thấp hơn nhưng
lại được lợi ở nhiều khâu khác…
Bên cạnh đó, để không bán sản phẩm ngay sau vụ thu hoạch lại có thể bảo
quản được chất lượng thì cần phải có sân xi măng để phơi, kho bãi để chứa, máy
móc phân loại v.v… những thứ này hầu hết nằm ngoài tầm với của nông dân nên họ
để lẫn lộn cả cà phê chín và xanh khi bán, ủ cà phê trên đất dễ bị hút ẩm gây mốc và
lẫn sạn, cát… dẫn đến giá bán thấp. Đây là kiểu sản xuất mà cà phê tốt cũng chỉ bán
được với giá chẳng khác gì cà phê xấu. Chính vì việc hái cà phê khi còn xanh nên
đã làm giảm chất lượng quả vì hương sẽ không thơm, vị sẽ nhạt, nhân không đẹp,
không mẩy bóng mà teo tóp và làm giảm từ 10 – 15% sản lượng, khi xuất khẩu sẽ bị
khách hàng chê, bị trừ lùi cao (1 tấn từ 100 – 120USD).
Trong vụ cà phê 20052006, Tổ chức Cà phê quốc tế đã phân loại cà phê
nhập tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại của
17 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê xuất xứ từ VN. Cho
nên tính ra mỗi năm ngành cà phê Việt Nam bị thiệt hại tới hàng trăm triệu USD.
§ Về phương thức mua bán:
Trước đây người nông dân sau khi thu hoạch cà phê thì lập tức bán ngay cho
đại lý thu mua theo kiểu “tiền trao cháo múc”. Nguyên nhân là do phần lớn nông
dân trồng cà phê thiếu vốn, trong quá trình trồng cà phê thường nhận tạm ứng trước
33
của đại lý để mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, bơm tưới… nên hầu hết sau vụ
thu hoạch là bị đại lý ép phải bán ngay để trang trải nào nợ nần, cho dù lúc thu
hoạch giá cả cao hay thấp, nông dân đều phải bán. Kiểu mua bán này luôn khiến
người nông dân ở thế yếu khi thu hoạch và bán cà phê vì giá nào cũng phải bán và
thường bị thương lái ép giá.
Hiện nay người nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà phê
ở xã, huyện các tỉnh Tây Nguyên. Đây là hình thức mua bán xuất hiện cách nay
chục năm và được xem là phương thức mua bán hay hơn hẳn so với phương thức
truyền thống “tiền trao cháo múc”. Ký gửi được xem là “hiện đại” hơn cách mua
bán cũ vì các đại lý kinh doanh cà phê xây dựng được kho chứa, có vốn lớn để khi
cần thì mua một lúc cà phê của nhiều hộ nông dân. Còn nông dân, thay vì thu hoạch
và bán ngay cho đại lý như trước với bất kỳ mức giá nào của ngày hôm đó, thì
phương thức này cho phép nông dân đưa cà phê tới kho của đại lý như hình thức
tạm trữ, đồng thời được tạm ứng một khoản tiền để người nông dân trang trải được
nợ nần. Nông dân theo dõi diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấy giá
bán có lợi, thì họ sẽ đến gặp thương lái chốt giá bán, và lấy tiền.
Tuy nhiên hình thức này không phải là không có rủi ro và những tổn thất do
những rủi ro này đem lại đối với người nông dân là vô cùng lớn: mất toàn bộ tiền
bán hàng khi đại lý vỡ nợ. Lý do rất đơn giản, các đại lý này cũng phải kinh doanh
lại bằng hai cách: ký gửi lại cho đại lý lớn hơn hoặc bán trước cà phê ký gửi của
nông dân lấy tiền đầu tư vào thương vụ khác để có lãi trả cho nông dân khi giá lên.
Điển hình năm 2008, hàng chục đại lý kinh doanh cà phê ở Đak Lak vỡ nợ đã bỏ
trốn do giá cà phê dù vẫn đang ở mức cao, trên 30.000 đồng/kg song lên xuống thất
thường khiến các đại lý đã bán trước cà phê của nông dân ký gửi với giá thấp cho
nhà xuất khẩu, tới khi giá lên, nông dân chốt giá bán bị lỗ nặng, gây thiệt hại cho
nông dân hàng chục tỉ đồng.
v Thương lái, đại lý thu mua cà phê à Doanh nghiệp xuất khẩu:
Các thương lái và đại lý thu mua cà phê thực chất chỉ là những người trung
gian giữa người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu.
34
Với mạng lưới khắp các tỉnh Tây Nguyên cùng hệ thống kho bãi, các đại lý
hơn hẳn các doanh nghiệp xuất khẩu khi nhận ký gửi cà phê của nông dân đồng thời
cho phép chốt giá vào bất kỳ thời điểm nào. Với phương thức kinh doanh như vậy,
thương lái và địa lý cũng đang đối mặt với những rủi ro biến động bất lợi của giá cả
khi h
Download miễn phí Luận văn Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam
Hiện na y n gười nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà ph ê
ở xã, hu y ện các tỉnh Tâ y Ngu yên . Đây là hình thức mua bán xuất hiện cách na y
chục năm và được xem là phương th ức mua bán ha y h ơn hẳn so với phươn g thứ c
tru y ền thống “tiền trao cháo múc”. Ký gửi được xem là “h iện đại” hơn cách mua
b án cũ vì các đại lý kinh doanh cà ph ê xây dựn g được kho chứa, có vốn lớn để khi
cần thì mua một lú c cà phê của nhiều hộ nôn g d ân. Còn nôn g d ân , tha y vì th u ho ạch
và bán ngay cho đ ại lý như trước với b ất kỳ mức giá n ào của ngà y hôm đó, thì
phươn g thức n ày cho phép nông dân đưa cà ph ê tới kho của đại lý như hình thức
tạm trữ , đồng thời được tạm ứn g một khoản tiền đ ể n gười nông d ân tran g trải được
n ợ nần. Nông dân theo dõ i diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấ y giá
b án có lợi, thì họ sẽ đến gặp thư ơng lái chốt giá bán, và lấ y tiền
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-10-24-luan_van_timhieu_thuctrang_kinh_doanh_capheov.k8fIa9cGVE.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-42063/
Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung:
biến chỉ nắm giữ khoảng 0,4% thị phần cà phêchế biến thế giới nên trong phần này chúng ta sẽ chỉ tập trung vào tìm hiểu quá trình
giao dịch cà phê nhân từ khi thu hoạch cho đến khi xuất đi thị trường nước ngoài để
thấy được những tồn tại của nó làm cơ sở tìm ra những giải pháp thích hợp để giảm
bớt ảnh hưởng của sự biến động giá cả đối với ngành này.
31
Sơ đồ 2.1: Quy trình kinh doanh cà phê ở Việt Nam hiện nay
Quy trình từ sản xuất đến xuất khẩu cà phê có 3 chủ thể chính tham gia:
Nông dân sản xuất nhỏ
(chiếm 80% diện tích
trồng cà phê)
Cà phê nhân xô
Sơ chế tại đại lý
(làm sạch, phân loại
cho xuất khẩu)
Sơ chế lại tại các doanh
nghiệp xuất khẩu
Doanh nghiệp chế biến cà phê
rang xay
(5% tổng sản lượng sản xuất)
Thị trường nội địa Thị trường quốc tế
Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê
nhân
(95% tổng sản lượng sản xuất)
Đại lý thu mua,
ký gửi cà phê
Cà phê nhân xô
Nông dân
trồng cà phê
Thương lái,
đại lý, thu
mua cà phê
Doanh nghiệp
xuất khẩu
cà phê
Nông trường và trang trại
(chiếm 20% diện tích
gieo trồng)
32
v Người nông dânà thương lái, đại lý thu mua cà phê
§ Về sản phẩm:
Có một nghịch lý: cà phê robusta Việt Nam chất lượng vào loại cao trên thế
giới, kể cả so với Indonesia nhưng lại thường phải bán giá thấp hơn cà phê cùng loại
của nước này. Sở dĩ như vậy vì người nông dân còn nhiều thiếu sót trong khâu thu
hái, sơ chế, phân loại và bảo quản.
Với giá nhân công tăng lên trong những năm gần đây, người nông dân
thường lựa chọn phương pháp tuốt hơn là hái từng quả, vì thế chất lượng quả cà phê
bị ảnh hưởng, đồng thời thu hoạch luôn cả quả xanh để đỡ bị mất trộm, giảm được
công hái (vì chỉ hái một lần là xong), phơi sấy một lúc, tiết kiệm được chi phí và
điều quan trọng nhất là vẫn bán được, vẫn có người mua, tuy giá có thấp hơn nhưng
lại được lợi ở nhiều khâu khác…
Bên cạnh đó, để không bán sản phẩm ngay sau vụ thu hoạch lại có thể bảo
quản được chất lượng thì cần phải có sân xi măng để phơi, kho bãi để chứa, máy
móc phân loại v.v… những thứ này hầu hết nằm ngoài tầm với của nông dân nên họ
để lẫn lộn cả cà phê chín và xanh khi bán, ủ cà phê trên đất dễ bị hút ẩm gây mốc và
lẫn sạn, cát… dẫn đến giá bán thấp. Đây là kiểu sản xuất mà cà phê tốt cũng chỉ bán
được với giá chẳng khác gì cà phê xấu. Chính vì việc hái cà phê khi còn xanh nên
đã làm giảm chất lượng quả vì hương sẽ không thơm, vị sẽ nhạt, nhân không đẹp,
không mẩy bóng mà teo tóp và làm giảm từ 10 – 15% sản lượng, khi xuất khẩu sẽ bị
khách hàng chê, bị trừ lùi cao (1 tấn từ 100 – 120USD).
Trong vụ cà phê 20052006, Tổ chức Cà phê quốc tế đã phân loại cà phê
nhập tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại của
17 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê xuất xứ từ VN. Cho
nên tính ra mỗi năm ngành cà phê Việt Nam bị thiệt hại tới hàng trăm triệu USD.
§ Về phương thức mua bán:
Trước đây người nông dân sau khi thu hoạch cà phê thì lập tức bán ngay cho
đại lý thu mua theo kiểu “tiền trao cháo múc”. Nguyên nhân là do phần lớn nông
dân trồng cà phê thiếu vốn, trong quá trình trồng cà phê thường nhận tạm ứng trước
33
của đại lý để mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, bơm tưới… nên hầu hết sau vụ
thu hoạch là bị đại lý ép phải bán ngay để trang trải nào nợ nần, cho dù lúc thu
hoạch giá cả cao hay thấp, nông dân đều phải bán. Kiểu mua bán này luôn khiến
người nông dân ở thế yếu khi thu hoạch và bán cà phê vì giá nào cũng phải bán và
thường bị thương lái ép giá.
Hiện nay người nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà phê
ở xã, huyện các tỉnh Tây Nguyên. Đây là hình thức mua bán xuất hiện cách nay
chục năm và được xem là phương thức mua bán hay hơn hẳn so với phương thức
truyền thống “tiền trao cháo múc”. Ký gửi được xem là “hiện đại” hơn cách mua
bán cũ vì các đại lý kinh doanh cà phê xây dựng được kho chứa, có vốn lớn để khi
cần thì mua một lúc cà phê của nhiều hộ nông dân. Còn nông dân, thay vì thu hoạch
và bán ngay cho đại lý như trước với bất kỳ mức giá nào của ngày hôm đó, thì
phương thức này cho phép nông dân đưa cà phê tới kho của đại lý như hình thức
tạm trữ, đồng thời được tạm ứng một khoản tiền để người nông dân trang trải được
nợ nần. Nông dân theo dõi diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấy giá
bán có lợi, thì họ sẽ đến gặp thương lái chốt giá bán, và lấy tiền.
Tuy nhiên hình thức này không phải là không có rủi ro và những tổn thất do
những rủi ro này đem lại đối với người nông dân là vô cùng lớn: mất toàn bộ tiền
bán hàng khi đại lý vỡ nợ. Lý do rất đơn giản, các đại lý này cũng phải kinh doanh
lại bằng hai cách: ký gửi lại cho đại lý lớn hơn hoặc bán trước cà phê ký gửi của
nông dân lấy tiền đầu tư vào thương vụ khác để có lãi trả cho nông dân khi giá lên.
Điển hình năm 2008, hàng chục đại lý kinh doanh cà phê ở Đak Lak vỡ nợ đã bỏ
trốn do giá cà phê dù vẫn đang ở mức cao, trên 30.000 đồng/kg song lên xuống thất
thường khiến các đại lý đã bán trước cà phê của nông dân ký gửi với giá thấp cho
nhà xuất khẩu, tới khi giá lên, nông dân chốt giá bán bị lỗ nặng, gây thiệt hại cho
nông dân hàng chục tỉ đồng.
v Thương lái, đại lý thu mua cà phê à Doanh nghiệp xuất khẩu:
Các thương lái và đại lý thu mua cà phê thực chất chỉ là những người trung
gian giữa người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu.
34
Với mạng lưới khắp các tỉnh Tây Nguyên cùng hệ thống kho bãi, các đại lý
hơn hẳn các doanh nghiệp xuất khẩu khi nhận ký gửi cà phê của nông dân đồng thời
cho phép chốt giá vào bất kỳ thời điểm nào. Với phương thức kinh doanh như vậy,
thương lái và địa lý cũng đang đối mặt với những rủi ro biến động bất lợi của giá cả
khi h