voungvan

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Không biết tự bao giờ, nhắc đến hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, người ta lại thường ví von với hình ảnh con cò. Phải chăng đó là số phận của người phụ nữ Việt Nam xưa kia, một thân một mình lam lũ với gánh nặng trĩu trịt trên vai?
Thạch Lam là một trong những nhà văn nổi tiếng của “Tự Lực văn đoàn” và của văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ông có một vị trí riêng biệt trong lịch sử văn học Việt Nam bởi nhiều thiên truyện ngắn cho đến nay và có lẽ mãi mãi vẫn làm ta xúc động, khi mà trên đời này vẫn còn những xót xa cho số phận con người.Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong những trang văn của Thạch Lam lại như đi sâu vào trong tâm khảm, như nhắc nhở ta luôn nhớ đến hình ảnh của một thời, một kiếp người từng tồn tại.
Trong những năm gần đây, giá trị của truyện ngắn Thạch Lam đã được phát hiện lại, đã có nhiều bài nghiên cứu về Thạch Lam. Để góp một tiếng nói vào việc khẳng định một tài năng, một nhân cách nhà văn đã từng hiến dâng cho đời nhiều áng văn chương có sức cuốn hút lòng người làm say mê bao thế hệ bạn đọc, tui mạnh dạn chọn đề tài “ dáng người phụ nữ Việt Nam qua các trang văn của Thạch Lam”.
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận, tui không có điều kiện và khả năng để giải quyết được hết mọi vấn đề của đề tài, mà chỉ đi vào một vài khía cạnh, một vài nét về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong truyện ngắn của Thạch Lam mà tui cho rằng những đặc điểm ấy đã góp phần làm nên nhà văn Thạch Lam của hôm qua, hôm nay và mai sau.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Tuy rằng đã có nhiều công trình nghiên cứu về Thạch Lam và các tác phẩm của ông nhưng nhìn chung về đề tài “ dáng người phụ nữ Việt Nam qua các trang văn của Thạch Lam”, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể. Thạch Lam viết nhiều, và viết hay, cho ta cái nhìn sâu sắc và cụ thể về dáng người phụ nữ Việt Nam, tuy nhiên, các công trình nghiên cứu gần đây lại không đi vào cụ thể đề tài này. Các nghiên cứu chỉ chỉ khám phá đề tài này trên những phương diện nhỏ, chưa thực sự khẳng định những giá trị của đề tài này trong các tác phẩm của Thạch lam.
Với thời lượng hạn hẹp của một bài tiểu luận, trên cơ sở kế thừa, tổng hợp những thành quả của các công trình nghiên cứu trước đó, hy vọng đề tài này mang đến cho người đọc một cái nhìn cụ thể về “ dáng người phụ nữ Việt Nam qua những trang văn của Thạch Lam”.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu mà các công trình nghiên trước, dựa trên những hiểu biết của bản thân, trong phạm vi một đề tài nghiên cứu nhỏ, bài tiểu luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp liệt kê phân loại: đây là phương pháp nghiên cứu thường thấy trong các nghiên cứu khoa học. Sử dụng phương pháp này nhằm liệt kê những luận điểm, luận cứ nhằm làm nổi bật và cụ thể hóa phạm vi mà đề tài nói đến.
Phương pháp phân tích tổng hợp, chứng minh: nhằm làm rõ những luận điểm, luận cứ đã được liệt kê.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với thời lượng nhỏ của một bài tiểu luận và kiến thức hạn chế của bản thân, phạm vi của đề tài chỉ gói gọn trong một số tác phẩm của Thạch Lam như “Gió lạnh đầu mùa”, “Hai đứa trẻ”, “Dưới bóng hoàng lan”, “Sợi tóc”, “Nhà mẹ Lê”, từ đó đi sâu vào tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong các tác phẩm trên.
5. Bố cục đề tài:
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của đề tài bao gồm 2 chương:
Chương I: Những vấn đề khái quát chung
Chương II: dáng của người phụ nữ Việt Nam qua các trang văn của Thạch Lam
Nội dung
Chương I Những vấn đề khái quát chung
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm:
1.1. Tác giả Thạch Lam:
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội trong một gia đình công chức,nhưng quê gốc ông ở Quảng Nam, gốc quan lại đã đến hồi sa sút.
Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình ở quê ngoại, sau đó theo cha chuyển sang Thái Bình và tiếp tục học tiểu học. Lớn lên, ông cùng gia đình chuyển ra Hà Nội.
Sau khi đỗ bằng Thành chung năm 1927 và học một năm ở Trường Canh nông, Thạch Lam xin vào học ở Trường Albert Saraut - trường dành riêng cho con em Tây và các gia đình quan lại, giàu có. Năm 1931, Thạch Lam đỗ bằng Tú tài phần thứ nhất. Sau đó ông theo anh trai là Hoàng Đạo vào Sài Gòn và bắt đầu viết văn, làm báo.
Năm 1933, Thạch Lam lập gia đình và về ở trong một căn nhà đơn sơ nhưng ấm cúng tại làng Yên Phụ.
Cũng trong năm này, anh trai Thạch Lam là Nhất Linh thành lập nhóm “Tự lực văn đoàn.” Thạch Lam cùng Hoàng Đạo tham gia nhóm này.
Thạch Lam mất ngày 27 tháng 6 năm 1942 vì căn bệnh lao phổi, năm ông 32 tuổi.
1.2. Tác phẩm:
Sáng tác của Thạch Lam rất gần với văn học hiện thực phê phán và phản ánh sự phân hóa theo hướng tiến bộ của văn xuôi lãng mạn thời kỳ Mặt trận dân chủ. Tuy nhiên, do chưa thật hiểu biết sâu sắc về đời sống nhân dân lao động, tình cảm trong tác phẩm của ông chân thành song còn trừu tượng.
Thạch Lam có sở trường viết truyện ngắn. Văn phong của ông giản dị, trong sáng, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, thâm trầm. Nhiều người cho rằng ông là người đầu tiên biết khai thác chất thơ trong đời sống hàng ngày. Truyện của Thạch Lam xa lạ với mọi thứ hấp dẫn bề ngoài, nhiều truyện dường như không có cốt truyện song vẫn có sức lôi cuốn riêng. Ông là cây bút có đóng góp đáng kể cho sự phát triển của thể loại văn xuôi trong văn học Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Các tác phẩm chính của Thạch Lam như tập truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” được xuất bản vào năm 1937; “Nắng trong vườn”, xuất bản vào năm 1938; “Sợi tóc”, 1942; truyện dài “Ngày mới”, xuất bản vào năm 1939; bình luận văn học “Theo giòng”, 1941; bút ký “Hà Nội băm sáu phố phường”, 1943... Hầu hết sáng tác của ông được đăng báo trước khi in thành sách.
1. dáng người phụ nữ Việt Nam trong văn học:
Thần thoại Hi Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn đăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít của đàn ong, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biến động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, hình nhuần nhuyễn của con chim yểng, chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức trung trinh của chim uyên ương, đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người phụ nữ.”
Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống muôn loài. Hình tượng người phụ nữ là một trong những đề tài lớn có sức hấp dẫn của Văn học thế giới. Trong văn học việt Nam, hình tượng người phụ nữ chứa đựng nhiều vẻ đẹp. Và đây cũng là đề tài quen thuộc để các nhà văn hướng tới, khám phá và tôn vinh.
Dù ở thời đại nào, người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống. Ở giai đoạn văn học nào, hình tượng người phụ nữ Việt Nam cũng tỏa sáng như những viên Rubi lấp lánh: đằm thắm, dịu dàng, tinh tế, duyên dáng khi thổ lộ tình yêu; tha thiết, thủy chung.

Chương II dáng người phụ nữ Việt Nam qua các trang văn của Thạch Lam
1. dáng người phụ nữ Việt Nam trên phông nền làng quê trước Cách mạng
dáng người phụ nữ Việt Nam trong văn Thạch Lam nổi bật trên phông nền làng quê trước Cách mạng tháng Tám.
Điểm nổi bật của loại không gian này là dễ gợi cho lòng người cảm giác trống vắng. Cái vắng lặng nơi làng quê có thể giết chết con người trong những suy tư, buồn tủi của cái nghèo. Hòa vào cái tĩnh mịch của đêm quê là những tiếng côn trùng hay những âm thanh kẽo kẹt nơi bờ tre, dễ gợi cảm giác rùng mình. Và con người như lạc lõng, rơi vào hố đen đêm tối của chính mình. Nếu như không gian thành thị bó thít con người, dồn nén họ trong cái ngột ngạt, trong những bi kịch đau đớn thì không gian nông thôn lại nhấn chìm con người trong sự đơn điệu, lãng quên (“Cô hàng xén”, “gió đầu mùa”, “nhà mẹ Lê”). Con người trong không gian ấy hòa nhịp đan quyện với những thanh âm buồn bã của đời sống, tạo thành một khúc nhạc đồng quê tấu lên như một tiếng khóc hờ để tự ru lấy đời mình.
Làng quê về đêm cũng giống như hình ảnh cuộc sống và con người cứ chìm dần, khuất hẳn trong bóng tối. Nó gợi sự xót xa và thương cảm của người đọc dành cho những con người, những cuộc đời, những không gian như thế. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con người càng thê lương theo cấp số cộng của cảnh đó thì lòng nhân đạo của nhà văn nhìn từ cảnh và người ấy cũng theo cấp số nhân mà phát triển lên.
Trên cái phông nền ấy, người phụ nữ hiện ra như những đốm sao băng, như Liên và Huệ trong “đêm ba mươi”, chìm nghỉm với miếng ăn trong cuộc đời giang hồ; như mẹ Lê, liều chết tìm gạo cho con lần cuối; như Tâm, “cô hàng xén”, tần tảo suốt đời, nuôi mẹ nuôi em, gánh vác nhà chồng cho đến tàn phai nhan sắc; như mẹ Hiên, vì cùng kiệt không mua nổi áo ấm cho con nhưng lại dạy con bài học làm người – không tham của, như bà của Thanh, hiện lên vẻ đẹp nhân từ, phúc hậu, với tình thương cháu vô bờ bến.
2. dáng người phụ nữ Việt Nam qua những trang văn Thạch Lam
2.1. cùng kiệt khổ, chân chất, điển hình cho người dân quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám
Có thể nói những năm 30 của thế kỷ XX, tư tưởng xã hội Việt nam được coi như là “một đường quành lịch sử” ( Lê Thanh), đường quành đó ảnh hưởng và soi chiếu đến mọi vấn đề xã hội. Văn hóa dân tộc đến đây cũng rẽ sang một đường mới, sáng tác văn học thời kỳ này bớt “khủng hoảng” hơn so với thời kỳ trước. Các văn nghệ sĩ đã tìm được cho mình mảnh đất tốt để gieo mầm, họ đi sâu vào đời sống nơi thôn dã hay những góc khuất của con phố, miêu tả số phận của những con người dưới đáy, để rồi yêu thương họ, nói lên tiếng nói của họ.
Thạch Lam là một trong những thế hệ nhà văn ấy, ông đã đến, miêu tả và yêu thương họ bằng con tim của một con người, ông hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm, những khu phố ngoại ô cùng kiệt khổ, buồn, vắng ...
Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, ảm đạm của số kiếp lầm than - đó là mẹ Lê, người đàn bà cùng kiệt khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn Thôn; là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô; là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn chập choạng, là bà mẹ cùng kiệt khổ suốt đời lam lũ không có đủ tiền may áo lạnh cho con, để rồi xót xa nhìn thân hình con tím tái giữa mùa giá lạnh (“Hai đứa trẻ”)
Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực.
Họ là những số phận bị xã hội lãng quên trong những góc phố huyện ẩm thấp, đầy rác rưởi, trong những mảnh vườn cô quạnh chỉ mình ta đối thoại với ta về cái khổ.
Đó là Tâm trong “Cô hàng xén” đã sớm quàng cái khổ về mình ngay từ lúc còn rất nhỏ cho đến khi có gia đình và cả quãng ngày dài về sau.
Chi tiết “cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dầy đặc” đã nhanh chóng ùa vào tâm hồn Tâm, khiến cô mường tượng ra một không gian đằng đẵng, triền miên của cảnh khổ hiện ra trước mắt mà “buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ” của cái nghiệp mà cuộc đời dựng lên là để dành cho cô.
Trong “Tối ba mươi”, hình ảnh Liên và Huệ - hai chị em họ xa nhà từ bao lâu nay; một người mẹ chết, cha lấy vợ khác không biết ở đâu, người kia còn cha mẹ nhưng không dám về, họ cô đơn trơ trọi đón xuân trong căn phòng lạnh lẽo và chạnh lòng nghĩ đến thân phận hẩm hiu của mình. Tấn bi kịch đầy nước mắt cuộc đời hai người con gái đáng thương lỡ sa chân xuống hố sâu tội lỗi, ngụp lặn trong bể khổ mênh mông, chịu chấp nhận mang bàn chân mình xỏ vào đôi hài phong trần của kiếp đời bán thân. Cùng là số phận dưới đáy nhưng ít ra Tâm trong “Cô hàng xén” vẫn có ngôi nhà và những người thân của mình để san sẻ, còn Liên và Huệ chỉ biết ôm quàng lấy nhau nức nở khóc, “ một nỗi buồn tủi mênh mang tràn ngập cả người” trong đêm giao thừa.
Đã khi nào bạn phải sống trong cơ cực, đã bao giờ bạn thấy cuộc đời này mòn mỏi, le lói, đơn điệu, nhàm chán, đã bao giờ bạn nhận ra tương lai thật mờ mịt và quá xa vời... Nếu chưa thì hãy thử trải nghiệm trong văn học, trải nghiệm qua "Hai đứa trẻ". Sống là đừng chết hết ước mơ và hi vọng, bởi chỉ có vậy ta mới thực sự sống.
“Chiều chiều rồi” như là một lời thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thở dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của vùng quê. Tả những con người cuối cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các ngõ tối.
Tiếng trống thu không rời rạc, chậm, lẻ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc chiều tối.
Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đời, về con người bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhưng dường như chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãn với cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ Chị Tí là điển hình cho người dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tối chị mới mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự với cuộc sống, giao tranh, tranh giành với cái đói,cái chết trông chờ vào những người trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những người khách ấy để sống. Cách chị Tí trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm them: để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời : “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật, mà điển hình là số phận của những người phụ nữ nơi đây.
Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp người, như một cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp người héo hắt. Bà cụ là một con người bị tàn lụi, héo úa và cho ta cảm giác rợn người, kinh hoàng ở chi tiết vừa đi vào bóng tối vừa cười khanh khách. Cách xưng hô với Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con
màn . . . . Chàng cảm động gần ứa nước mắt. Bà yêu thương cháu quá, giờ chỉ có mình cháu với mình bà”
Chàng về quê cũng như để tìm lại tình cảm ngây thơ, trong trắng với cô em hàng xóm mà chàng đôi lúc tưởng như em ruột mình.
“Thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng và nụ cười tươi nở, nàng lại nhìn Thanh, một chút thôi, nhưng biết bao âu yếm.
Ngoài vườn, trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tá áo trắng của Nga. Những búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga ngày nào đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ, lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về”
Khác với không khí lãng mạn trong các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng. Tình yêu của Thạch Lam ở đây thanh cao, chân thực và thơm tho như mùi hoa hoàng lan thoang thoảng đâu đây, nó vừa là tình yêu, tình hàng xóm, tình anh em và tình người.
“Bữa ăn xong, Thanh với Nga trở lại thân mật như khi còn nhỏ. Thanh dắt nàng đi xem vườn; cây hoàng lan cao vút, cành lá rủ xuống như chào đón hai người. Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng hương thơm như có giắt hoàng lan. Nhưng hoa lan chưa rụng, vẫn còn tươi xanh ở trên cành… Nắng soi vào hai người, nhưng dưới chân, đất vẫn mát như xưa”
“Dưới bóng hoàng lan” đã để lại trong ta cái dư vị ngọt ngào của miền quê dân dã. Trên cái vẻ yên bình ấy hiện lên một người bà hiền từ, một cô thiếu nữ hàng xóm dịu dàng, e lệ. Cái khổ cực, cái trần trụi của đời thường, của cơm áo gạo tiền không đề cập đến, chỉ có tình thương quyện chặt mùi hoàng lan, tỏa mãi trong không gian ấm áp tình người.

Kết thúc

Văn học là một dòng sông, nhà văn là con thuyền trên dòng sông ấy. Nước chảy thuyền trôi. Con thuyền đi qua mọi bến bờ của thời gian, không gian và ở một nơi xa nào đó trên một bờ vắng đầy cỏ dại, nó đã cập bến mang theo những khuông hàng chất nặng suy tư, cũng có khi là để đề cao một nhân cách, một số phận, một con người.
“ dáng người phụ nữ Việt Nam” được Thạch Lam phác họa bằng ngòi bút thấm đẫm tình người. Dưới mọi góc nhìn, mọi hoàn cảnh, người phụ nữ Việt Nam vẫn ánh lên vẻ đẹp rạng ngời, lòng thủy chung, sự hy sinh cao cả.
Khác với những cây bút khác, cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam..
Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top