chuot_ngoc

New Member
Download Đề tài Đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về nâng cao năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên môi trường và thúc đẩy quyền trẻ em và phụ nữ

Download miễn phí Đề tài Đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về nâng cao năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên môi trường và thúc đẩy quyền trẻ em và phụ nữ





Tình hình kinh tế: Thôn định cư được thành lập vào năm 1985, nằm giữa địa bàn thôn Lương Viện và Viễn Trình. Thôn có 150 hộ, trong đó có 48 hộ nghèo và hiện tại vẫn còn 07 hộ đang sống trên đò. Trên thực tế, khu định cư đã có khung cấp hành chính nhưng chưa được công nhận là thôn. Trong 150 hộ thì có 20 hộ là tham gia nuôi trồng, còn lại là đánh bắt thuỷ sản. Tính chất của công việc khiến cho người dân thôn định cư có nhiều thay đổi khác xa so với cuộc sống trên cạn của các vùng ngư nghiệp khác. Hầu hết các hộ đều làm nghề đánh bắt, và nuôi trồng. Nhiều hộ gia đình còn làm thêm các nghề phụ như thợ nề, làm công nhân và nhiều người đi làm ăn xa trên các vùng của cả nước. Nguồn vốn tự nhiên của các hộ dân, ngoài đầm phá ra còn có một ít diện tích đất canh tác nhỏ trong vườn không đáng kể để sản xuất một số cây rau màu. Thu nhập từ trên đầm phá vẫn là chính và quanh năm suốt tháng người dân chuyển đổi ngư cụ trên đầm để đánh bắt phù hợp sinh vật và con nước.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

ản trở, dòng chảy không thông thoáng. Lượng rác này tù động lâu ngày, khi phân huỷ cũng góp phần làm cho nguồn nước bị ô nhiễm, có màu khác thường và có mùi hôi.
Một yếu tố quan trọng nữa góp phần làm cản trở dòng chảy đó chính là việc bố trí các ngư cụ cố định trên đầm phá chưa hợp lý. Khoảng cách giữa các trộ nghề như nò sáo, đáy, lồng cá chưa đảm bảo về độ thông thoáng cho dòng chảy. Có những nơi nò sáo đan khít nhau, khiến cho phương tiện giao thông thuỷ đi lại khó khăn. Một số vùng có các lồng nuôi cá cắm sát bờ, tạo điều kiện cho rác tù đọng thêm, giữa các lồng không có khoảng cách khiến cho dòng nước không lưu thông, dễ gây nên bệnh tật cho cá, khi có bệnh lại dễ lây lan. Vấn đề này đã xảy ra trong thời gian dài, được đề cập nhiều nhưng vẫn chưa giải quyết được triệt để do một số địa phương chưa quy hoạch vùng đánh bắt, một số vùng quy hoạch nhưng chưa hợp lý khiến cho người dân chưa tuân theo. Từ phía chính quyền và các cơ quan chức năng cấp tỉnh đã có một số quy chế và chính sách để xử lý tình trạng này nhưng đến nay vẫn chưa thực thi được do chưa có đủ nguồn lực về con người và kinh phí để thực hiện. Mặt khác một số bộ phận dân cư vì sinh kế và điều kiện kinh tế nên chưa chịu di dời theo các quy chế, quy hoạch của chính quyền đưa ra.
Ngoài ra nguồn nước đầm phá còn chịu thêm một số tác động khác. Đó là nguồn nước thải từ các sinh hoạt cư dân, các khu chợ ven sông, đầm, các cơ sở sản xuất chế biến. Quan trọng hơn là một số cơ sở chế biến thuỷ sản gần đó đổ trực tiếp nước thải ra sông, đầm phá không qua xử lý hay xử lý chưa đạt tiêu chuẩn do chi phí cao, làm giảm lợi nhuận. Mặt khác các cơ quan chức năng chưa đủ nhân lực và trách nhiệm để giám sát việc thực thi các quy định về môi trường.
Vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan chặc chẽ với việc tài nguyên đầm phá bị cạn kiệt, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Tuy nhiên, việc quản lý tài nguyên nhằm tạo ra sinh kế bền vững cho người dân hiện nay chưa đạt hiệu quả. Vấn đề ở chổ phương pháp và cơ chế quản lý tài nguyên chưa hợp lý.
Quản lý tài nguyên liên quan đến vai trò chính quyền các cấp lẫn cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài các chính sách quản lý tài nguyên đầm phá đều có những điểm không hợp lý cả trong quá trình xây dựng lẫn thực thi. Quá trình đề ra chính sách thiếu sự tham gia của cộng đồng, quá trình thực thi chính sách chưa hiệu quả và triệt để. Nguồn lực thực hiện quản lý tài nguyên, bao gồm con người, kinh phí lẫn trang thiết bị còn hạn hẹp. Các quy hoạch, chiến lược phục vụ quản lý tài nguyên về lâu dài thiếu tầm nhìn.
Có nhiều yếu tố dẫn đến việc người dân không được tham gia trong quá trình hình thành chính sách. Một mặt chính quyền chưa coi trọng vai trò của người dân mặt khác người dân chưa có thói quen và biết được vai trò của mình. Ngoài ra, tổ chức đoàn hội thay mặt cho người dân, cụ thể là các hội nghề cá, chưa phát huy được vai trò của mình do chưa tổ chức chặt chẽ, năng lực còn kém, chưa được chính quyền quan tâm đúng mức, hoạt động chưa hiệu quả. Các hội nghề cá vốn là tập hợp các thành viên/các hộ có các hoạt động đánh bắt, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản tại các địa phương, trong đó vùng đầm phá được chú trọng hơn cả. Do đặc thù như vậy nên các hội có những khó khăn nhất định. Một khó khăn chung nhất là trước đây cư dân đánh bắt không có nơi ở ổn định nên ít được học hành, dẫn đến trình độ học vấn thấp, từ đó khó có thể tìm ra được người điều hành tốt. Bên cạnh đó, người dân đầm phá vốn quen lênh đênh sông nước nên nếp sống tự do, ít có thói quen sinh hoạt đoàn hội, khiến họ ít có cơ hội được tiếp cận thông tin nói chung và các chính sách quản lý tài nguyên đầm phá nói riêng cũng như ít có cơ hội trình bày những nguyện vọng về nghề nghiệp đến chính quyền địa phương, vậy nên chi hội chưa có tiếng nói đủ mạnh và khó tổ chức các hoạt động tập thể khác.
2.2. Dự án có hợp phần thúc đẩy quyền và tăng năng lực cho phụ nữ và trẻ em
Ngoài việc chịu ảnh hưởng chung của môi trường đầm phá ô nhiễm và nguồn tài nguyên cạn kiệt, phụ nữ và trẻ em ở khu vực đầm phá còn phải đối mặt với sự bất bình đẳng. Vị thế của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội thấp hơn so với nam giới. Mặc dù tỷ lệ hai giới trong lực lượng lao động ngang nhau, nhưng nghề nghiệp khác nhau. Theo Cục thống kê lao động thì phụ nữ có phạm vi công việc tương đối nhỏ chẳng hạn như bủa lưới, làm thuê, buôn bán hay ở nhà chăm sóc con cái. Trong khi đó nam giới có thể tham gia vào nhiều công việc khác nhau, những công việc mà nam giới thường làm cho thu nhập cao hơn so với nữ giới. Chính vì thế nam giới thường có khuynh hướng làm những nghề nghiệp có khả năng nâng cao vị thế của họ trong gia đình, đồng thời nghề nghiệp và thu nhập cho phép họ có quyền lực hơn trong gia đinh. Trong khi đó phụ nữ chủ yếu làm những công việc mang lại thu nhập thấp nên chưa có vị thế xứng đáng trong gia đình. Do vậy, công việc ngoài xã hội xưa nay do nam giới đảm nhận, vì thế công việc nội trợ - chăm sóc nhà cửa, con cái được xác định là công việc của phái nữ. Sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động sản xuất vẫn chưa mang lại thay đổi tích cực về vai trò, trách nhiệm của họ trong gia đình. Ngoài ra, trình độ học vấn của phụ nữ thường thấp hơn nam giới. Tỷ lệ phụ nữ ở nơi đây biết đọc và viết rất thấp. Chính điều này đã làm cho tiếng nói và vị thế của họ trong gia đình cũng như trong cộng đồng chưa cao. Hầu như không ai lắng nghe tiếng nói của họ và ý kiến của họ thường được xem là thứ yếu. Chính vì vậy, phụ nữ ít được quyền kiểm soát và ra quyết định các vấn đề trong gia đình và xã hội, đặc biệt những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và sức khỏe của họ.
Có nhiều nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng giới. Nguyên nhân thứ nhất trực tiếp là trình độ học vấn của phụ nữ thấp hơn nam giới. Điều này cũng xuất phát từ những định kiến xã hội dành cho phụ nữ. Những định kiến này thường do phong tục tập quán. Xã hội đã quy định giáo dục, trường lớp là nơi dành riêng cho nam giới, còn bếp núc là nơi dành riêng cho phụ nữ.
Ngoài những định kiến xã hội thì nơi ở trước đây của họ cũng đã có những ảnh hưởng nhất định. Trước đây, họ sống trên thuyền, cuộc sống nay đây mai đó. Chính yếu tố này dẫn đến họ không có điều kiện để đến trường. Theo khảo sát gần đây của chúng tui thì phụ nữ trong độ tuổi từ 40 đến 50 đều không biết đọc và viết (chiếm 86,67%) số người học ở bậc tiểu học (chiếm 20%) và một số ít là cấp II (2,67%).
Nguyên nhân thứ hai là phạm vi giao tiếp hẹp của phụ nữ đối với xã hội bên ngoài. Điều này đã khiến phụ nữ thiếu thông tin và thường e ngại trước mặt người khác. Hầu hết những cuộc họp ở cộng đồng hay buổi tập huấn đều do nam giới đảm đương. Phụ nữ chỉ ở nhà và có được...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D đánh giá trữ lượng và hoạt tính sinh học của cây xạ đen Y dược 0
D Nghiên cứu, ứng dụng mô hình matlab - simulink để tính toán đánh giá lưới điện phục vụ công tác đào tạo Khoa học kỹ thuật 0
D Đánh giá công tác khảo sát, tính toán ổn định mái dốc phục vụ thi công đường cao tốc Nội Bài Lào Cai, 264km Kiến trúc, xây dựng 1
D Nghiên cứu đánh giá các phương pháp tính toán thiết kế hồ điều hòa cho hệ thống thoát nước đô thị Nông Lâm Thủy sản 0
Q Tối ưu hóa điều kiện chiết xuất polyphenol từ lá vối và đánh giá hoạt tính chống oxi hóa từ dịch chiết Y dược 0
D Tính toán phân tích độ tin cậy của hệ thống cung cấp điện và đánh giá hiệu quả của các thiết bị phân đoạn Khoa học kỹ thuật 0
D Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng trong thực hành xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì và Đan Phượng, Hà Nội Y dược 0
D đánh giá khả năng định tính nhóm beta agonist trong thịt bằng kit betaagonist elisa của hãng randox Nông Lâm Thủy sản 0
P Đánh giá tính “hướng về cộng đồng” của chương trình đào tạo hệ đại học chính quy tại trung tâm đào t Luận văn Kinh tế 0
H Đánh giá thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top