lop05c1

New Member
Download Tiểu luận Cái nhìn nghệ thuật - Một phương diện chủ yếu của phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu

Download miễn phí Tiểu luận Cái nhìn nghệ thuật - Một phương diện chủ yếu của phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu





Xuân Diệu hướng về sự sống chẳng bao giờ chán nản vì cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Với cái nhìn cuộc sống muôn màu muôn vẻ, Xuân Diệu thấy cuộc sống đẹp như thiên đường trên mặt đất: Của ong bướm này đây tuần tháng mật / Này đây hoa của đồng nội xanh rì / Này đây lá của cành tơ phơ phất / Của yến anh này đây khúc tình si (Vội vàng)
Vì vậy, nhà thơ luôn thiết tha gắn bó với cõi trần, với cuộc đời hiện tại. Nhà thơ đã mang lại một quan niệm nhân sinh mới: Hạnh phúc là ở giữa trần gian, ở ngay trong hiện tại (Khác với quan niệm nhân sinh của người xưa). Xuân Diệu sống với thì hiện tại mà ngày trước và ngày sau đều không đáng kể: Kể chi chuyện trước với ngày sau (Tình trai), Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai (Giục giã;). Đối với các nhà thơ khác, hiện tại là những nấm mồ chôn tuổi trẻ: Và Hiện Tại, biết cùng chăng hỡi bạn / Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh (Những nấm mồ – Chế Lan Viên). Bao nhiêu người khác chối bỏ hiện tại, Thế Lữ thoát lên tiên, Vũ Hoàng Chương say, còn ở Thâm Tâm và Nguyễn Bính vang lên điệp khúc ra đi, ra đi. Chỉ có Xuân Diệu bám riết lấy hiện tại, lấy cõi trần.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ột giá trị tinh thần vĩnh viễn, là phương tiện biến khoảnh khắc thành vĩnh cửu, biến hữu hạn thành vô hạn, biến bốn mùa thành mùa xuân..
Xuân Diệu không bằng lòng với tình yêu mơ màng, xa xăm như Thế Lữ hay Lưu Trọng Lư mà huy động cả linh hồn và thể xác, mọi giác quan để hưởng thụ tình yêu một cách vồ vập: Mau lên chứ vội vàng lên với chứ / Em em ơi tình non đã già rồi (Giục giã); Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực! / Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài / Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai / Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt / Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt (Xa cách). Với Xuân Diệu, lần đầu tiên ở Việt Nam, tình yêu được quan niệm một cách chân thành, táo bạo, mới mẻ đến thế.
ở đề tài tuổi trẻ, tình yêu, Xuân Diệu khẳng định giá trị vĩnh hằng của chúng: Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu vĩnh viễn; Tình không tuổi và xuân không ngày tháng.
ở đề tài thời gian, Xuân Diệu đối phó với sự chảy trôi của thời gian bằng cách khẳng định hiện tại, sống sâu sắc, sống sôi nổi, mãnh liệt với hiện tại, khẳng định tình yêu và thơ ca sẽ là phương tiện chiến thắng thời gian. Điểm độc đáo nữa của Xuân Diệu khi triển khai đề tài thời gian là ở chỗ: với ông, chỉ có hai mùa: mùa xuân và mùa còn lại. Mà phần còn lại hầu như không có, vì các mùa đều có thể thành xuân, mùa xuân ở giữa mùa thu, mùa hè, mùa đông, bởi đó là xuân lòng, xuân tâm tưởng (Xuân không mùa). Với Xuân Diệu, ông không phân thời gian theo cách thông thường thành quá khứ – hiện tại – tương lại mà phân thời gian chỉ có hai thì: thời tươi và thời phai: Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng / Cho no nê thanh sắc của thời tươi; Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi / Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa…Có thể nói, tình nồng thắm làm nên thời tươi, tình lặng tắt làm nên thời phai..
3. Hệ thống hình tượng, hình ảnh và các mô típ nghệ thuật đặc trưng.
Thơ Xuân Diệu xây dựng được hình tượng một cái tui độc đáo. Một cái tui chủ động, mạnh mẽ, sôi nổi đến vồ vập trong tình yêu nhưng có khi lại cô độc (Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất / Không ai chi bè bạn nổi cùng ta), yếu đuối, buồn bã, đợi chờ, mong được ban phát tình yêu: Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi; Và hãy yêu tui một giờ cũng đủ / Một giây cũng cam, một phút cũng đành. Một cái tui vừa là tình nhân vừa là triết nhân. Cái tui tình nhân gồm đủ hai con người: một gã tình si và một kẻ thất tình. Càng cuồng nhiệt, đam mê thì càng cô đơn, chỉ gặp lạnh lẽo, hững hờ: Lòng anh là một cơn mưa lũ / Đã gặp lòng em là lá khoai; Cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn… Con người triết nhân thì không vội vàng, mê mải yêu đương như con người tình nhân mà băn khoăn tìm bản chất, cội nguồn của tình yêu: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu; Yêu là chết ở trong lòng một ít…
Hình tượng tiêu biểu thứ hai trong thơ Xuân Diệu là hình tượng người tình. Người tình trong thơ Xuân Diệu không phải gái quê như trong thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử mà rất đài các, kiêu sa. Xuân Diệu tạo ra ở hình tượng giai nhân một điệu sống theo lối mới, với thủ pháp khắc hoạ mới: da thịt du dương, ngón tay thơ, xiêm nghê nổi gió lùa… Nàng hiện lên là một tình nhân đầy quyến rũ nhưng cũng hiện ra với một đối cực: giai nhân hờ hững: Đôi mắt của người yêu ôi vực thẳm / Ôi trời xa vừng trán của người yêu; Em đã xé lòng non cùng giấy mới…
Hình tượng cái tui và hình tượng giai nhân đi đôi với nhau, có quan hệ luyến ái với nhau, và thế giới mà họ tồn tại là thế giới của tình ái. Hình tượng thế giới trong thơ Xuân Diệu hiện ra với hai diện mạo phổ biến: mảnh vườn tình ái và sa mạc cô liêu (, 52). Vườn là hình ảnh trở đi trở lại trong thơ Xuân Diệu và trong không gian của tình ái đó vạn vật, con người giao duyên với nhau: Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy / Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ / Nghiêng xuống đường rêu một lối đầy; Những tiếng ân tình hoa bảo gió / Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân; Gió xuân phơ phất bay vô ý / Đem đụng cành mai sát nhánh đào… Tương phản với vườn tình ái là sa mạc cô liêu – thế giới của cô đơn, bất hạnh, vạn vật li tán: Mà tình ái là sợi dây vấn vít / Mà cảnh đời là sa mạc vô liêu; Bãi xa cũng muốn làm sa mạc…
Đi cùng với ba hình tượng tiêu biểu là hai hệ thống hình ảnh đặc trưng trong thơ Xuân Diệu: đó là những hình ảnh đẹp, tràn đầy màu sắc, âm thanh, đường nét vui tươi: đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, ánh sáng chớp hàng mi, sự sống mơn mởn, cánh bướm, mùa xuân, ; và những hình ảnh gợi sự chia lìa, u buồn, gợi sự cô đơn, đơn độc: đàn buồn, đàn lặng, trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết, giá băng tràn mọi nẻo… Hình ảnh trong thơ văn Xuân Diệu tràn đầy ấn tượng và cảm giác, cảm giác của mọi giác quan.
Điểm độc đáo ở Xuân Diệu là nhiều hình ảnh quen thuộc, bao người đã sử dụng nhưng Xuân Diệu vẫn có cách viết của riêng mình, ví dụ hình ảnh đôi mắt trong bài thơ Hôn cái nhìn: Không phải anh hôn nơi mắt / Anh hôn cái nhìn của em / Mắt em một vừng yêu mến / Thắt anh trong lưới êm đềm; hay hình ảnh giọt lệ – Trái đất: Trái đất ba phần tư nước mắt / Đi như giọt lệ giữa không trung..
4. Phong cách nghệ thuật của nhà văn được thể hiện ở hệ thống cách biểu hiện, những thủ pháp, biện pháp quen dùng có hiệu quả, để lại dấu ấn riêng, in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
4.1. Hệ thống thủ pháp, biện pháp:
Thơ Xuân Diệu sử dụng với tần số cao biện pháp so sánh, ẩn dụ, đối lập, tạo được những liên tưởng kì thú.
Trước hết nói về so sánh: Xuân Diệu dùng so sánh khá nhiều. Có so sánh cụ thể: Lá liễu dài như một nét mi, có so sánh rất trừu tượng (Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền / Người vĩnh viễn như lòng trăng ý gió – Ca tụng). Đặc biệt so sánh trong thơ Xuân Diệu nghiêng nhiều về tả cảm xúc. Rất nhiều trạng thái cảm xúc trừu tượng qua so sánh trở nên cụ thể: Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp / Như túp nhà không bốn vách xiêu (Bên ấy bên này); Và đêm nay lòng tui lạnh lẽo / Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ (Thở than).. Về ẩn dụ, đặc biệt trong thơ Xuân Diệu xuất hiện nhiều loại ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: nhạc thơm, nhạc hường… Về đảo ngữ, điều đặc biệt ở Xuân Diệu là ông thường đảo những tính từ, động từ, trạng thái chỉ cảm giác, cảm xúc lên trước để gây ấn tượng về cảm giác (Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió – Buồn trăng; Lạnh lẽo chân qua để bụi mờ / Thờ thẫn cây đa trên bến cũ – Buổi chiều)
4.2. Cách tổ chức kết cấu tác phẩm thơ và văn xuôi:
Cách cấu tứ bài thơ của Xuân Diệu cũng hết sức độc đáo, không giống ai. Chẳng hạn, ông tạo ra tứ: tấm kính giữa đôi ta, tưởng gần gũi nhưng lại là ngăn cách. Hay ở bài thơ Chầm chậm đừng quên, ông triển khai tứ: khi yêu nhau giữa hai người có những sợi dây vô hình ràng buộc và khi xa nhau cũng phải cởi cho hết từng sợi dây tình cảm và tránh sao khỏi những vết lằn đau cho da thịt…
Trong văn xuôi, Xuân Diệu sử dụng kĩ thuật cấu tứ, kĩ thuật điệp khúc, hình ảnh đầy chất thơ, kĩ thuật đưa đẩy bằng v
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
Y Tiểu luận: Giao thông đường bộ ở hà nội - thực trạng và giải pháp dưới cái nhìn triết học Văn hóa, Xã hội 0
M Tiểu luận: Phạm trù cái đẹp trong Mỹ học phương Tây trước Mác Văn hóa, Xã hội 0
H Tiểu luận: vận dụng quan hệ biến chứng giữa cái chung và cái riêng phân tích nền kinh tế thị trường Văn hóa, Xã hội 0
Y Tiểu luận: Vận dụng cặp phạm trù cái chung cái riêng trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XH Văn hóa, Xã hội 0
G Tiểu luận: Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở n Văn hóa, Xã hội 0
A Tiểu luận: vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa các phạm trù cái riêng, cái chung nói lên vai trò củ Văn hóa, Xã hội 0
J Tiểu luận: Phân tích mối liên hệ giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất trong quá trình hình thàn Văn hóa, Xã hội 0
S Tiểu luận: GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở HÀ NỘI dưới cái nhìn của triết học - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Văn hóa, Xã hội 0
Q Tiểu luận Tìm hiểu cái tôi trong nhân cách người Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0
N Tiểu luận Bàn về phạm trù cái bi Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top