Download Tiểu luận Diện và hàng thừa kế - Lý luận và thực tiễn

Download miễn phí Tiểu luận Diện và hàng thừa kế - Lý luận và thực tiễn





Nếu xét đơn thuần về huyết thống thì cụ nội của một người là người đã sinh ra ông nội hay bà nội của người đó. Cụ ngoại của một người là người đã sinh ra ông ngoại hay bà ngoại của người đó. Như vậy, các cụ của một người là người đã sinh ra ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của người đó, người đó là chắt của các cụ. Điểm c khoản 1 Điều 676 đã phân biệt các cụ thành nội, ngoại, thiết nghĩ điều này không quan trọng và không cần đặt ra vì các cụ ngang quyền nhau khi hưởng di sản mà chắt để lại. Cái cần xác định là cụ ruột hay không thì điểm c nói trên lại không quy định cụ thể. Căn cứ để xác định thừa kế giữa cụ với chắt giống như căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu. Quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu cũng như quan hệ giữa cụ với chắt là quan hệ ngành dọc theo một chuỗi thế hệ từ đời thứ nhất đến đời thứ ba, đời thứ tư. Trong chuỗi thế hệ đó chỉ đơn thuần là huyết thống nhưng cũng có thể đan xen cả huyết thống cả nuôi dưỡng. Về mặt pháp lý, luật chỉ quy định rằng khi chắt đứng vào hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của cụ thì phải là chắt ruột của người chết còn khi cụ ở hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của chắt thì luật chưa xác định cụ ruột hay không. Từ đó ta thấy việc xác định giữa cụ và chắt có quan hệ thừa kế với nhau trong những trường hợp nào là một việc hết sức khó khăn. Tôi cho rằng theo nguyên tắc bình bình đẳng trong thừa kế nên nếu chắt ruột mới được hưởng di sản của cụ thì cũng là cụ ruột thì mới được hưởng di sản của chắt. Tuy nhiên, do sự đan xen về huyết và nuôi dưỡng nói trên trong thực tế nếu mọi trường hợp nhất đều áp dụng theo nguyên tắc sẽ có nhiều bất cập.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

trọng. Mục đích xác định quan hệ huyết thống nhằm bảo vệ những quyền lợi tài sản và nhân thân cho các cá nhân và là đạo lý của đời sống xã hội, với quan điểm mỗi người sinh ra đều phải có cha, mẹ là cội nguồn của mối quan hệ ruột thịt, là căn cứ để xác định nghĩa vụ và quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ gia đình và xã hội. Và trong trường hợp cần thiết xác định trách nhiệm của họ đối với nhau và nghĩa vụ giám hộ cho nhau, thay mặt cho nhau trong các quan hệ dân sự và các quan hệ xã hội khác.
Quan hệ nuôi dưỡng
Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau giữa những người thân thuộc theo quy đinh của pháp luật.
Điều 20 luật hôn nhân gia đình năm 1986 và các điều 50, điều 56 đến điều 59 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng theo nguyên tắc:
– Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động nuôi sống mình.
– Con có nghĩa vụ kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ.
Quan hệ nuôi dưỡng còn được thể hiện giữa anh chị em ruột với nhau trong hoàn cảnh mồ côi cha mẹ hay cha mẹ còn nhưng không có khả năng lao động hay đều không có năng lực hành vi dân sự. Hay quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng. Trong thực tế cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con theo điều 679 BLDS họ được thừa kế của nhau. Nếu con riêng của vợ, của chồng mà chết trước cha kế, mẹ kế, con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế khi qua đời.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa con nuôi với cha, mẹ nuôi theo pháp luật quy định ở điều 18 và điều 25 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và điều 74 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Phạm vi những người thừa kế theo pháp luật được xác định trên ba mối quan hệ như đã trình bầy ở trên. Ba mối quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống có tính độc lập tương đối, vì quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên, từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp luật giữa người để lại di sản với người thừa kế. Chỉ có xác định diện những người thừa kế theo pháp luật chuẩn xác mới ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong dòng tộc và có tác dụng giáo dục ý thức sống, ý thức pháp luật cho những người thuộc diện thừa kế.
Hàng thừa kế
Như chúng ta đã biết, di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân thích của những người đó. Tuy nhiên, trong số những người thân đó thì mức độ gần gũi, thân thích của mỗi người đối với người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng dược hưởng di sản của người đó. Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại. Như vậy, không phải tất cả những người trong diện những người thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế cùng một lúc. Để những người thừa kế theo pháp luật theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết, pháp luật về thừa kế đã xếp những người đó theo từng nhóm khác nhau. Mỗi một nhóm được gọi là hàng thừa kế theo pháp luật.
Vậy: “Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại”.
Đã có rất nhiều văn bản quy định về thừa kế như: thông tư 1742, thông tư 594, thông tư 81, Pháp lệnh thừa kế, Bộ luật dân sự 1995. Những văn bản trên đã mắc phải những thiếu sót nhất định, và những thiếu sót đó đã được bổ sung trong Bộ luật dân sự 2005.
Do sự thay đổi và phát triển về nhiều mặt của cuộc sống, các quy định trong Bộ luật dân sự 1995 đã có nhiều điểm trở lên bất cập và nhiều thiếu sót. Vì thế, nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi bổ sung bộ luật dân sự 1995 bằng Bộ luật dân sự 2005. Về hàng thừa kế theo pháp luật, Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định như sau:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Hàng thừa kế thứ nhất
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người hưởng di sản của nhau:
a.1) Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng
Vợ – chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính chất hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”, “thừa kế của nhau”, nghiã là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất.
Khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường hợp sau:
– Trường hơp thứ nhất: Vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn, sau đó một bên chết thì về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại. Do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
– Trường hợp thứ hai: Vợ chồng đã sống ly thân về mặt tình cảm hầu như tình yêu giữa họ đã không còn nhưng về một lý do tế nhị nào đó nên họ không ly hôn, hôn nhân của họ vẫn đang tồn tại. Vì vậy, người còng sống vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
– Trường hợp thứ ba: …Khi một bên chết, dù người kia còn sống đang sống chung với người khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
– Trường hợp thứ tư: ...Vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án cho ly hôn hay đã được tòa án cho ly hôn nhưng quyết định hay bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
– Trường hợp thứ năm: Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đó đều được tiến hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 ở miền Nam, thì khi người chồng chết trước tất cả các người vợ (còn sống) đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của ngừơi chồng và ngược lại.
– Trường hợp thứ sáu: Nếu cán bộ chiến sĩ ở miền Nam, sau khi tập kết ra Bắc, lấy vợ ở m...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H Tiểu luận: Quan điểm toàn diện và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở VN hiện nay Văn hóa, Xã hội 0
B Tiểu luận: Vận dụng quan điểm toàn diện của triết học MÁc lê nin để giải thích nguyên nhân của vấn đ Văn hóa, Xã hội 0
A Tiểu luận: Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành Luận văn Luật 1
A Tiểu luận: pháp luật về đại diện Luận văn Luật 0
N Tiểu luận: Nội dung diện và hàng thừa kế theo pháp luật Luận văn Luật 0
S Tiểu luận: Quan điểm toàn diện đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướn Văn hóa, Xã hội 0
N Tiểu luận: Quan điểm toàn diện với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã Văn hóa, Xã hội 0
N Tiểu luận: Quan điểm toàn diện về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO Văn hóa, Xã hội 0
N Tiểu luận: QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VỚI VIỆC TÌM HIỂU VẤN ĐỀ GIAO THÔNG ĐÔ THỊ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY Văn hóa, Xã hội 0
Y Tiểu luận: Quan điểm toàn diện với việc phân tích tính tất yếu của quá trình phát triển KTTT ở VN tr Văn hóa, Xã hội 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top