haudau_92

New Member
Download Tiểu luận Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này

Download miễn phí Tiểu luận Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này





HTND là thay mặt của nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước và hạn chế tiêu cực trong hoạt động của TA, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó, HTND khi xét xử phải độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và ngang quyền với TP.
TP và HTND hỗ trợ nhau giải quyết vụ việc dân sự, song vẫn có sự độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh giá các tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu của đương sự.
Trong quá trình nghị án, TP không được lấy quyền do mình là chủ tọa phiên tòa mà áp đặt ý kiến, nhận định lên HTND. HTND cũng không được dựa vào ưu thế số đông để giải quyết vụ án theo quan điểm của riêng họ.
Sự độc giữa TP và HTND có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành một cách nghiêm minh, đúng pháp luật. Tuy nhiên, phải hiểu độc lập không có nghĩa là hoàn toàn tách biệt với nhau.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

LỜI NÓI ĐẦU
Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử nói chung và trong xét xử vụ án dân sự nói riêng. Nguyên tắc này được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao và được đảm bảo thi hành trên thực tế. Tuy nhiên, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này ở nước ta vẫn còn một số bất cập, hạn chế, khiến cho nguyên tắc này chưa thực sự phát huy được hết ý nghĩa của nó.
NỘI DUNG
I, LÝ LUẬN CHUNG
1, Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
1.1, Khái niệm
Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc cơ bản trong Luật TTDS Việt Nam, thể hiện tư tưởng, định hướng trong hoạt động xét xử các vụ việc dân sự. TP và HTND độc lập khi xét xử, tự mình quyết định việc giải quyết các vụ việc dân sự mà không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng như của chính các thành viên HĐXX và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tuy nhiên, độc lập không có nghĩa là tùy tiện mà phải căn cứ vào pháp luật để xét xử.
Ngoài việc tuân theo các quy định của pháp luật, TP và HTND chỉ tuân thủ các quy tắc xét xử. Điều này nhằm tránh mọi sự lạm dụng quyền lực của các TP, cũng như để cho các TP tránh được mọi áp lực từ phía các cơ quan Nhà nước.
Độc lập xét xử là một nguyên tắc Hiến định. Trong TTDS, TA độc lập ngay từ khi đương sự nộp đơn khởi kiện lên TA và TA thụ lý đơn khởi kiện. TP và HTND tuy độc lập xét xử nhưng phải trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. TA chỉ thụ lý vụ án khi có đơn khởi kiện của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Trong quá trình tố tụng, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung các yêu cầu của mình; có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Như vậy, TA mặc dù giữ vai trò chủ định, độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật, song việc giải quyết vụ án dân sự vẫn phải dựa trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên đương sự về việc giải quyết vụ án.
1.2, Ý nghĩa
Nguyên tắc này là cơ sở , nền tảng để xây dựng, thực hiện các quy phạm khác của pháp luật TTDS . Đồng thời, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:
Thứ nhất, đây là một trong những nguyên tắc nền tảng để tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ổn định các quan hệ kinh tế - xã hội trong giao lưu dân sự.
Thứ hai, việc thực hiện đúng và đầy đủ nguyên tắc này góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng xét xử; khẳng định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của TP và HTND trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự.
Bên cạnh đó, độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật còn bảo đảm một môi trường đầu tư và kinh doanh lành mạnh, các quyền cơ bản của mỗi con người trong xã hội được đảm bảo, góp phần vào công cuộc phòng chống tham nhũng.
2, Cơ sở pháp lý của nguyên tắc
Đây là một nguyên tắc Hiến định, được quy định từ Hiến pháp năm 1959. Tại Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nói chung được quy định tại Điều 130. Sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của TP và HTND trong lĩnh vực TTDS nói riêng được quy định tại Điều 12 BLTTDS: “Khi xét xử vụ án dân sự, TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…”.
II, NỘI DUNG NGUYÊN TẮC
1, Khi xét xử, TP và HTND độc lập
1.1, Khi xét xử, TP và HTND độc lập với các yếu tố bên ngoài
1.1.1, Khi xét xử, TP và HTND độc lập với VKS
Xét xử vừa là hoạt động chấp hành pháp luật, vừa là hoạt động áp dụng pháp luật. Do vậy, TA phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật trước khi áp dụng đối với các đối tượng khác. Để đảm bảo được điều này thì hoạt động xét xử của TA được đặt dưới sự giám sát của VKS.
Theo khoản 1 Điều 197 Điều 234 BLTTDS 2004, Kiểm sát viên có quyền phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của TP, HĐXX; việc chấp hành pháp luật của người tham gia TTDS… Tuy nhiên, những ý kiến này chỉ mang tính chất khuyến nghị và không có ý nghĩa trực tiếp làm thay đổi hành vi tố tụng và phán quyết của HĐXX. Khi xét xử, TP và HTND phải căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiếm tra, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật và trên cơ sở nhận định, đánh giá của mình để ra bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự và có quyền kết luận khác với ý kiến của VKS. Hoạt động kiểm sát xét xử trong TTDS của VKS không làm ảnh hưởng tới nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.1.2, Khi xét xử TP và HTND độc lập với TA các cấp
Việc chỉ đạo của Chánh án đối với việc giải quyết vụ việc dân sự không phải là duyệt án mà chỉ là định hướng, hướng dẫn các TP áp dụng đúng pháp luật. Quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về HĐXX, nếu sai, HĐXX phải chịu trách nhiệm về phán quyết của mình. Nguyên tắc trao đổi án cũng chỉ giúp TP xem xét vụ án ở nhiều góc cạnh, hạn chế những sao sót chứ không bắt buộc TP phải tuân theo.
Trong mối quan hệ giữa các cấp xét xử: Trong xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm hoàn toàn độc lập với những nhận định của TA cấp sơ thẩm về nội dung của vụ án. HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho TA cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án, nhưng không có quyền yêu cầu TA cấp dưới công nhận hay bác bỏ những chứng cứ nào trong quá trình xét xử lại vụ án, cũng như không có quyền yêu cầu TA cấp dưới xét xử theo những nhận định của mình. TA cấp sơ thẩm khi xét xử lại vụ án thì vẫn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Các hướng dẫn của TA cấp trên đối với TA cấp dưới thông qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử không phải là hướng dẫn hay chỉ đạo việc xét xử một vụ án cụ thể mà chỉ có ý nghĩa là đường lối xét xử chung, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.
1.1.3, Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập trong mối quan hệ với nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”. Sự độc lập của TP và HTND trong xét xử không mâu thuẫn với quy định này. Vì Đảng lãnh đạo chặt chẽ cơ quan tư pháp về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ nhưng Đảng không can thiệp vào hoạt động xét xử từng vụ án cụ thể của TA. Mọi sự can thiệp trái pháp luật của cá nhân Đảng viên và của cấp ủy Đảng vào hoạt động xét xử của TP và HTND đều là nhận thức không đúng về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của TA.
1.1.4,...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top