kid_wizard

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

A.ĐẶT VẤN ĐỀ .1
B.NỘI DUNG .1
I.Lý luận chung 1
II. Thực trạng 6
1. Bình đẳng giới trong gia đình trong lao động 6
2. Bình đẳng giới trong khi tham gia vào thị trường lao động .8
III.Một số nguyên nhân .9
IV.Một số kiến nghị 11
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ .11
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ học vấn của phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình giáo dục cấp 2 trở lên là 24,7% so với 28% là của nam giới. Như vậy, mức độ chênh lệch giữa nam và nữ về giáo dục ở nước ta không nhiều. Theo Kết quả chủ yếu của Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục Thống kê (TCTK) thì tỷ lệ biết chữ của nam giới là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ 15 tuổi trở lên). Trang Wikipedia dẫn nguồn từ website Quốc hội thì tại Việt Nam, cứ 100 cử nhân có 36 nữ, 100 thạc sĩ có 34 nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Để tôn vinh các nhà khoa học nữ, 25 năm qua, giải thưởng Kovalevskaia đã trở thành một giải uy tín lớn trong giới khoa học Việt Nam được trao cho hàng chục cá nhân, tập thể. Từ năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam” nhằm khuyến khích và tôn vinh phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực.
Khi phụ nữ có học vấn, học vấn cao sẽ mở ra các cơ hội cho họ về việc làm, thu nhập, cơ hội tiếp cận về y tế, kế hoạch hoá gia đình hay tham gia lĩnh vực chính trị. Chính vì thế, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Mở cánh cửa giáo dục là mở ra các cơ hội mới.
Theo UNDP, tỷ lệ nữ tham gia lao động của Việt Nam là 68% và nam giới là 76%. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ tham gia lao động là 46,6% trong tổng số lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia lao động gần bằng nam giới. Đáng chú ý là báo cáo “Bình đẳng giới và Phát triển” (Gender equality and Development) của World bank được công bố mới đây thì tỷ lệ phụ nữ (30%) tham gia lao động trong lĩnh vực dịch vụ lại cao hơn nam giới (26%). Có trên 20% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ, chủ yếu thuộc về khu vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản[6]. Nhiều tấm gương phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm giàu cho bản thân mà còn đóng góp được nhiều cho xã hội. Theo UNDP thì tại Việt Nam nếu nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm được 0,69$ (số liệu năm 2007). Điều này khác xa so với nhiều nước trên thế giới. Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu nhập và mang đến sự tự chủ về kinh tế, sự chia sẻ
Đến nay, tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải quyết việc làm đã tăng lên và có khả năng vượt chỉ tiêu kế hoạch. Theo Điều tra lao động - việc làm ngày 1/8/2007 của Tổng cục Thống kê, năm 2005, lao động nữ chiếm khoảng 21,14 triệu người trong tổng số lao động của nền kinh tế quốc dân (48,6% so với 43,45 triệu lao động), đến 8/2007 đã tăng lên khoảng 22,77 triệu người (49,4% so với tổng số trên 46,11 triệu lao động).

Chênh lệch lao động sau 2 năm 2006 – 2007 tương ứng với số lao động được giải quyết việc làm mới là 2,76 triệu người (trong đó, lao động nam là 1,08 triệu người và lao động nữ là trên 1,67 triệu người), bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 1,33 triệu người, trong đó, lao động nữ là 835 nghìn người.

Tuy vậy nhưng vẫn có những hạn chế sau:
Thứ nhất, mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức, phụ nữ cũng tham gia rất nhiều vào lực lượng lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức, ước tính khoảng 70% đến 80%. Tuy nhiên, điều kiện lao động, thu nhập và an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) đối với lao động nữ làm việc trong khu vực này còn rất nhiều hạn chế.
Thứ hai, nhiều quy định của pháp luật lao động chưa được các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện, thậm chí một số doanh nghiệp còn trốn tránh thực hiện bởi họ nhìn nhận những quy định ưu tiên, ưu đãi đối với lao động nữ là những gánh nặng tài chính hay đem lại rủi ro cho họ vì vậy những quy định ưu tiên đối với lao động nữ có thể trở thành bất cập
Thứ ba, còn khoảng cách giữa quy định của chính sách pháp luật và thực tiễn thực hiện nên lao động nữ không thực sự thụ hưởng, cụ thể theo các quy định về giảm thuế cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ thì các khoản chi cho lao động nữ được coi là các khoản chi hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật không mang tính bắt buộc. Vì vậy, nếu doanh nghiệp chi thêm cho lao động nữ thì doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục phức tạp để đề nghị được xét giảm thuế. Do vậy, các doanh nghiệp thường chọn cách không chi thêm cho lao động nữ. Mặt khác, các khoản chi phí thực hiện chính sách ưu đãi phải hạch toán vào giá thành sản phẩm dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp khiến doanh nghiệp né tránh thực hiện các quy định ưu đãi đối với lao động nữ. Trong khu vực nông thôn, lao động nữ chưa được điều chỉnh bởi hệ thống chính sách pháp luật này, mặc dù họ chiếm đa số lực lượng lao động ở đây. Một sự bất bình đẳng mới phát sinh ngay giữa các nhóm lao động nữ trong lực lượng lao động.
III.Một số nguyên nhân

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

yuliaishiyama

New Member
Re: [Free] Tiểu luận Vấn đề bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình trong lao động và tham gia vào thị trường lao động

cho mình xin link down nha
 

daigai

Well-Known Member
Re: [Free] Vấn đề bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình trong lao động và tham gia vào thị trường lao động

Link mới update, mời bạn xem lại bài đầu
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top