Download Tiểu luận Tìm hiểu về diện và hàng thừa kế trong quá trình phát triển của dân luật Việt Nam

Download miễn phí Tiểu luận Tìm hiểu về diện và hàng thừa kế trong quá trình phát triển của dân luật Việt Nam





Sau một thời gian dài áp dụng Pháp lệnh Thừa kế nói riêng và các văn bản pháp luật dân sự nói chung vào thực tiễn cuộc sống ,trước sự phát triển không ngừng và sự phong phú, đa dạng của các quan hệ dân sự cho thấy việc quy định để điều chỉnh các quan hệ dân sự bằng các văn bản dưới luật đã không còn phù hợp và không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế cuộc sống.Trước tình hình đó,Bộ Luật Dân sự 1995 được ban hành và trở thành một công cụ pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,tổ chức , lợi ích của nhà nước , lợi ích của cộng đồng , góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội .Với tinh thần ấy , Bộ luật Dân sự 1995 là một văn bản pháp luật đã hệ thống hoá, pháp điển hoá toàn bộ pháp luật dân sự của nước ta từ trước đến nay.Tuy nhiên,về hàng thừa kế theo pháp luật ,Bộ luật Dân sự vẫn giữ nguyên quy định của Pháp lệnh về Thừa kế.Tại điều 679,BLDS 1995 quy định về hàng thừa kế như sau:



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

81 không phải là những người mà giữa họ có quan hệ nuôi dưỡng hay họ nhận kết nghĩa anh -em ,chị-em với nhau mà họ là những người được coi là những thành viên trong một gia đình nhưng không cùng cha mẹ đẻ vì một người là con ruột , một người là con nuôi của cha mẹ trong gia đình đó. Chẳng hạn, vợ chồng ông A và bà B có con đẻ là anh C,sau đó nhận anh D làm con nuôi , thì C và D được gọi là anh –em nuôi .Vì vậy, khi ông A , bà B chết thì cả C và D đều là con nên đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của ông A, bà B .Khi C, chết , D thuộc diện thừa kế theo luật của C và ngược lại.
Trong những năm khởi đầu thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế ,nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để thừa nhận và bảo đảm cho nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển theo định hướng XHCN .Bên cạnh các hình thức sở hữu cơ bản ,chủ đạo như sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể thì các hình thức sở hữu khác như : sở hữu cá thể ,sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân cũng được nhà nước công nhận và đảm bảo để tồn tại và phát triển. Theo đó, các văn bản pháp luật về thừa kế cũng được củng cố nhằm đảm bảo cho sự ổn định và bền vững mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đảm bảo quyền tư hữu cá nhân đối với tài sản của họ . Đặc biệt, nhằm đảm bảo quyền để lại thừa kế cũng như quyền hưởng di sản của người chết để lại giữa những người là thành viên trong một gia đình , Hội đồng nhà nước( nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã ban hành kịp thời Pháp lệnh về thừa kế vào 30 tháng 8 năm 1990. Diện thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh Thừa kế xác định được mở rộng hơn so với Thông tư 81 . Đó là đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo trực hệ đã được xác định ở phạm vi bốn đời ( tôn thuộc ở bậc cụ, ty thuộc ở hàng chắt). Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột,bác ruột,cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và cháu của người chết là chú ,bác ruột cô,cậu ruột,dì ruột ) .Tuy nhiên , Pháp lệnh Thừa kế không thừa nhận anh ,chị ,em nuôi có quan hệ thừa kế với nhau. Khi bộ luật Dân sự 1995 của nhà nước ta được ban hành thì các vấn đề về thừa kế nói chung về cơ bản được kế thừa từ quy định của Pháp lệnh về Thừa kế. Vì vậy ,diện những người được hưởng di sản của người chết theo pháp luật được xác định trong bộ luật này không có gì thay đổi so với Pháp lệnh Thừa kế.Các văn bản pháp luật về thừa kế trước đây ( chẳng hạn như Thông tư 594,thông tư 81) đã trực tiếp sử dụng thuật ngữ “ diện thừa kế” để xác định phạm vi những người được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết để lại.Khác với các thông tư đó, Bộ luật dân sự 1995 không quy định trực tiếp về diện thừa kế. Tuy vậy,dựa vào những người thuộc các hàng thừa kế theo pháp luật và những người được hưởng thừa kế thế vị mà Bộ luật Dân sự 1995 đã xác định thì những người nằm trong diện có thể hưởng thừa kế theo pháp luật bao gồm những người sau đây: vợ,chồng,cha mẹ đẻ , cha mẹ nuôi, con đẻ,con nuôi của người chết( hàng thừa kế thứ nhất) ; ông nội ,bà nội , ông bà ngoại ; anh chị ruột ,em ruột của người chết ( hàng thừa kế thứ hai) ; cụ nội ngoại, của người chết ; bác ruột, chú ruột , cô , cậu ruột ,dì ruột của người chết ; cháu ruột của người chết mà người chết là chú ruột, bác ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột ( hàng thừa kế thứ ba); cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,bà nội ông bà nội ngoại ;chắt của người chết mà người chết là cụ nội ,cụ ngoại( thuộc người thừa kế thế vị). Khi bộ luật Dân sự 1995 được sửa đổi thành bộ luật dân sự 2005 thì phạm vi những người có thể được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản thừa kế của người chết để lại về cơ bản là không đổi ( điều 676 bộ luật dân sự 2005). Tuy nhiên,bộ luật Dân sự 2005 đã xác định thêm: cháu vừa là người thừa kế theo pháp luật của ông bà ở hàng thừa kế thứ hai vừa là người thừa kế thế vị của ông bà ,cha,mẹ khi cha,mẹ chết trước hay cùng thời điểm với ông,bà. Chắt vừa là người thừa kế theo pháp luật của cụ ở hàng thừa kế thứ ba vừa là người thừa kế thế vị khi ông bà, cha,mẹ chết trước cụ.
II. Hàng thừa kế theo pháp luật
Như chúng ta đã biết, di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân thích của người đó. Tuy nhiên, trong số những người thân thích đó thì mức độ gần gũi, thân thích đối với người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có cùng mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng được hưởng di sản của người đó.Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại. Như vậy, không phải tất cả những người trong diện những người thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế cùng một lúc.Để những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế theo pháp luật hưởng di sản theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết , pháp luật về thừa kế đã sắp xếp những người đó theo từng nhóm khác nhau.Mổi một nhóm đó được gọi là một hàng thừa kế theo pháp luật. Vậy, hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế người chết để lại. Đa phần, pháp luật của các nước khi phân chia thành các hàng thừa kế để xác định trình tự dịch chuyển di sản từ người chết sang những người thừa kế theo pháp luật của người đó theo truyền thống: “ dòng chảy xuôi” nên pháp luật của các nước thường xếp con của người chết ở hàng thừa kế thứ nhất nhưng cha mẹ của người chết không được xếp ở hàng thừa kế thứ nhất. Mặt khác,mỗi một quốc gia và thậm chí trong cùng một quốc gia ở mỗi thời kỳ khác nhau có những quan niệm khác nhau về gia đình , về bổn phận của các thành viên trong gia đình với nhau. Hơn nữa,pháp luật về thừa kế ngoài việc phụ thuộc vào pháp luật về sở hữu còn phụ thuộc rất nhiều về truyền thống văn hoá ,hoàn cảnh xã hội, tập tục, đạo đức ,tôn giáo của mỗi quốc gia . Vì vậy,hàng thừa kế theo pháp luật được quy định trong pháp luật của các nước có nhiều điểm khác nhau.
1. Hàng thừa kế theo bộ luật Dân sự Nhật Bản
Bộ Luật Dân sự Nhật Bản dựa trên quan hệ huyết thống và hôn nhân giữa những người thừa kế với người để lại di sản để xác định ba hàng thừa kế.
Hàng thứ nhất bao gồm con của người chết ,cháu của người chết sẽ thừa kế di sản của người đó ở hàng thứ nhất nếu con của người đó chết trước hay mất quyền hưởng di sản trư
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top