Download Học thuyết phân chia quyền lực - Một cách tư duy về quyền lực nhà nước

Download miễn phí Học thuyết phân chia quyền lực - Một cách tư duy về quyền lực nhà nước





Những nhà tư tưởng của học thuyết tam quyền phân lập đã chịu ảnh hưởng của tư duy cơ giới. Logich hình thức của Aristotle, người đã có những ý tưởng ban đầu về phân quyền, là những cơ sở của tư duy cơ giới. "Lôgich hình thức cũ, cũng giống y như cái trò chơi trẻ con là xếp những mẩu vụn thành những bức tranh"[18,tr.105]. Aristotle hình thành nên những ý tưởng ban đầu về phân quyền dựa trên cách tư duy của lôgích học hình thức trên cơ sở quan sát tổ chức nhà nước Aten.
Thời đại của J. Locke và Montesquieu là thời đại phát triển mạnh mẽ của tư duy cơ giới. Những nhà tư tưởng phương Tây này không thể thoát khỏi ảnh hưởng của tư duy cơ giới trong học thuyết phân quyền của mình. J. Locke phản đối nguyên lý duy tâm "tôi tư duy, vậy tôi tồn tại" của Descartes, nhưng J. Locke cũng đã duy tâm khi quá đề cao vai trò của tư duy lý tính, trí tuệ con người tới mức cực đoan, phủ nhận vai trò của các khả năng cảm tính trong quá trình nhận thức. Thực chất quan niệm trên đây xuất phát từ việc sùng bái vai trò của các ngành khoa học tự nhiên lý thuyết đang phát triển mạnh thời kỳ này [11,tr.289]. Việc đề cao lý thuyết khoa học tự nhiên theo khuynh hướng duy lý của J. Locke đã cho thấy ông không thể tránh khỏi ảnh hưởng của tư duy cơ giới- cách tư duy phổ biến, thống trị khoa học tự nhiên thời kỳ bấy giờ. Yêu cầu phân quyền của Locke là yêu cầu có tính chất "tất yếu kỹ thuật" của những thể chế chính trị tự do [13, tr.356]. Montesquieu cũng chịu ảnh hưởng của tư duy cơ giới khi ông muốn giải thích hiện tượng xã hội một cách tự nhiên, khẳng định các hiện tượng xã hội và tự nhiên có sự thống nhất với nhau và đều tuân theo các quy luật nhất định. Qua đề cao sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội, Montesquieu chưa đánh giá đúng mức đặc thù riêng của các quy luật xã hội [11, tr.352]. Thuyết phân quyền của ông là một minh chứng cho luận điểm này.
Học thuyết phân quyền được xây dựng trên cách tư duy cơ giới: quan niệm đối tượng- quyền lực nhà nước, như một "bộ máy", quyền lập pháp, quyền hành pháp, và quyền tư pháp là các bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước. Người ta đề xuất rằng tam quyền phải phân lập là vì quan niệm bộ phận quyết định tổng thể, tổng thể là do các bộ phận ghép lại.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ầm mống từ Aristotle. Ông đã quan niệm rằng trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần có những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các toà án [12, tr.7]. Tuy nhiên, tư tưởng của Aristotle mới chỉ dừng ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước. Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17-18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là J. Locke và Montesquieu. J. Locke (1614-1657), một nhà triết học Anh, là người đã khởi thảo học thuyết phân quyền. Ông chia quyền lực nhà nước thành các quyền: lập pháp, hành pháp, và liên minh. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước; quyền lập pháp phải thuộc về nghị viện; nghị viện phải họp định kỳ để thông qua các đạo luật, nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các bộ trưởng, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào đối với nghị viện để nhằm không cho phép nhà vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua cũng thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hoà bình, và đối ngoại [9, tr268]. Những luận điểm phân quyền của J. Locke được nhà khai sáng người Pháp là Montesquieu (1689-1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nói đến thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông. Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ. Chế độ quân chủ chuyến chế là tổ chức quyền lực phi lý. Chuyên chế là hình thức cầm quyền của một người phủ nhận pháp luật. Và nhà nước phụ thuộc vào sự lộng quyền của người cầm quyền. Chế độ chuyên chế sở dĩ tồi tệ, phi lý là vì: nhà nước tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung, nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và ý chí tuỳ tiện của nó lại trái với bản chất pháp luật và nhu cầu pháp luật. Montesquieu nhận thấy pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với bản chất của nó. Gắn với bản chất của chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời, là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu một khi quyền lực được tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn.  Từ đó, Montesquieu cho rằng, tổ chức quyền lực nhà nước theo cách phân chia quyền lực nhà nước là để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, bảo đảm quyền tự do của con người. Montesquieu viết: "Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên lão thì không còn tự do nữa; vì nguời ta sợ rằng chính ông ta hay viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp”[14, tr.101]. Học thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu không phải là một sự suy luận pháp lý diễn dịch mà là từ sự quan sát nước Anh lúc bấy giờ. Sự mô tả Hiến pháp Anh chính là nguồn cảm hứng cho suy luận của Montesquieu về phân quyền [2, tr.220]. Montesquieu cho rằng quyền lực tối thượng phải được phân chia thành ba hình thái quyền lực cơ bản là: lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Không có khái niệm quyền lực chính trị tối thượng. Ba quyền này phải phân và lập, nghĩa là chia tách ra khỏi nhau và độc lập với nhau, không quyền nào hơn quyền nào. Ba quyền đó được giao cho những cơ quan khác nhau, độc lập với nhau có cách hình thành riêng, cách thức hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng. Tương ứng với ba quyền đó là ba cơ quan: cơ quan lập pháp là quốc hội, cơ quan hành pháp là chính phủ, cơ quan tư pháp là toà án. Thuyết phân quyền quan niệm rằng, mỗi cơ quan thay mặt quốc gia thi hành một nhiệm vụ, một quyền hạn và chỉ có nhiệm vụ quyền hạn ấy mà thôi. Cơ quan lập pháp chỉ có quyền lập pháp, chỉ có nhiệm vụ làm luật. Cơ quan hành pháp chỉ có quyền hành pháp, nghĩa là nhiệm vụ thi hành luật lệ. Cơ quan tư pháp chỉ có quyền tài phán, nhiệm vụ xét xử để áp dụng pháp luật.  Phân chia quyền hạn thôi chưa đủ, mà phải có sự độc lập giữa các cơ quan. Nghĩa là các cơ quan không có hành động hỗ trợ nào. Quốc hội không có quyền gì đối với chính phủ như chất vấn, tín nhiệm hay bất tín nhiệm các thành viên của chính phủ...Ngược lại chính phủ không được tham gia thảo luận, không có quyền ấn định các kỳ họp, hay giải tán quốc hội. Trái lại có sự cô lập hoàn toàn giữa các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực chuyên môn của mình [1, tr.120]. Một khi tam quyền đã được phân lập rồi thì vấn đề tiếp theo là làm sao để ba quyền đó kiểm soát lẫn nhau. Để tránh tập trung quyền lực vào tay một hay một nhóm người thì cần có một cơ chế kiểm soát quyền lực, mà khả thi nhất là dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực [14,tr.244]. Như vậy người ta sẽ tránh được rủi ro là: một quyền lực mạnh quá sẽ có tham vọng trở nên độc đoán vì rằng kinh nghiệm vĩnh viễn cho thấy: ai có quyền cũng sẵn sàng lạm quyền. Do đó thuyết phân quyền của Montesquieu đặt vấn đề: "Phải làm thế nào cho cái việc quyền hành ngăn chặn quyền hành trở nên một sự dĩ nhiên"[3, tr.220]. Thuyết phân quyền của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức nhà nước của các nước tư bản. Đa số Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản cuả việc tổ chức quyền lực nhà nước. Nguyên tắc này có thể được khẳng định trực tiếp bằng các quy phạm của Hiến pháp. Điều 10 Hiến pháp Liên bang Nga quy định: “Quyền lực nhà nước ở liên bang Nga được thực hiện dựa trên cơ sở của sự phân quyền thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan của các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập” Điều 1 của Hiến pháp Ba Lan cũng trực tiếp khẳng định viềc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo Điều 7 của Hiến pháp Hy Lạp, quyền lực nhà nước của cộng hoà Hy Lạp dựa trên những nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước thành những nhánh lập pháp, hành pháp, và tư pháp... Có những Hiến pháp không quy định một cách trực tiếp, mà gián tiếp thể hiện nguyên tắc phân quyền thông qua các quy định của Hiến pháp về t
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top