Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
B. NỘI DUNG.

I, Nhận thức chung về biện pháp tạm giam
1. Khái niệm biện pháp tạm giam
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng dối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hay đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hay phạm tội bắt quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hay có hành vi gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Để tạo điều kiện cho đấu tranh phòng ngừa tội phạm, Pháp luật TTHS của Nhà nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Trong số những biện pháp đó có biện pháp tạm giam
1.2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam (Điều 88 BLTTHS năm 2003).
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về biện pháp tạm giam: theo tác giả Nguyễn Văn Nguyên trong cuốn “các biện pháp ngăn chặn và nhưng vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng” có đưa ra khái niệm “tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở điều tra, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội” chúng ta nhận thấy định nghĩa trên chưa nêu ra được cơ quan có thẩm quyển áp dụng biện pháp tạm giam và mục đích của tạm giam; còn theo Nguyễn Văn Điệp trong luận án tiến sĩ luật học năm 2006 về “các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong TTHSVN” có nêu “tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi”. Tuy nhận định này đã nêu ra được mục đích nhưng chưa nêu ra được cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam cũng như nhưng căn cứ áp dụng BPNC tạm giam; giáo trình trường Đại học luật Hà Nội thì cho rằng “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án áp dụng đối vói bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trong hay đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội”
Mặc dù mỗi quan điểm mỗi khác nhưng nhìn chung thì chúng ta đều nhận thấy: tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khác nhất trong số các biện pháp ngăn chặn. Người bị tạm giam bị cách li khỏi xã hội trong một thời giann nhất định và bị hạn chế một số quyền cơ bản của công dân.
2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam.
2.1. Mục đích của tạm giam.
Ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hay có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng BPNC tạm giam còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Ví dụ: việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khia của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gain triệu tập nhiều lần, giúp cho quản lý giám sát bị can được chặt chẽ; còn việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành bản án có hiệu lực pháp luật được thuận tiện.
2.2. Ý nghĩa của tạm giam.
Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điêu tra xử lý tội phạm, ngăn chặn nhanh chóng, làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là một nhiệm vụ quan trọng của Cơ quan điều tra, VKS, TAND. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, các cơ quan tiến hành tố tụng được phép áp dụng BPNC, trong đó tạm giam giữ vai trò quan trọng. Áp dụng BPNC tạm giam sẽ đảm bảo cho sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng khi cần thiết, bảo đảm để bản án tuyên có điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp luật cũng như bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng (giữ bí mật điều tra, không cho bị cáo cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội…)
Thứ hai. việc quy định biện pháp tam giam thể hiện sự cưỡng chế của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN. Biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng ảnh hưởng trực tiếp tới quyền tự do cá nhân, người bị áp dụng biện pháp này sẽ bị cách li khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, bi hạn chế một số quyền công dân: quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Chính vì thế mà biện pháp tạm giam có tác dụng ngăn ngừa tội phạm tiêp tục phạm tội, ngăn ngừa hậu quả hay gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Thứ 3, việc quy định BPNC tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. Điều 71 Hiến pháp 1992 đã khẳng định “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hay phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.”
Tôn trọng vảo bảo vệ quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc quan trọng trong không chỉ trong tố tụng hình sự. Vì vậy các cán bộ điều tra, truy tố, xét xử cần đối xử với bị cáo như một công dân bình thường. BPNC tạm giam không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước mà nó còn là phương tiện hữu hiện để bảo vệ những quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hay đang bị xâm hại. Tuy hạn chế một số quyền của công dân nhưng nó bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khác.
Thứ 4, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Pháp luật XHCN không cho phéo bất cứ hành vi nào xâm hại tới quyền và lợi ích chính đáng của công dân dù đó là do ai thực hiện
3. Đối tượng áp dụng.
Biện pháp tạm giam chỉ áp dụng cho bị can, bị cáo. Những người không phải là bị can, bị cáo thì không áp dụng biện pháp tạm giam mà cố thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003 “Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội.”
- Trường hợp thứ nhất: bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. tội rất nghiêm trọng (theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009). Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này thì người có thẩm quyền có thể ra lệnh tạm giam ngay mà không cần thêm các căn cứ khác.
- Trường hợp thứ hai: bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội. Tội phạm ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng được quy định ở khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy đinh mức phạt tù từ hai năm tù trở xuống hay hình phạt khác không phải là hình phạt tù thì không áp dụng BPNC tạm giam. Nếu cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp khác như: cấm ra khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hay tài sản có giá trị khác. Để bảo đảm trong thời hạn bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định mức hình phạt tù trên 2 năm thì để tạm giam họ phải có điều kiện thứ hai đó là căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hay cản trở điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội. Để các định được điều này cần dựa vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hay những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn không được quy định trong luật. Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những căn cứ chủ yếu cần dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư trú của bị can, bị cáo (Có nơi cư trú? Thường trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền hay không? Nơi cư trú có ở quá xa nơi tiến hành các hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng nghề nghiệp (Có nghề nghiệp không? Làm việc trong cơ quan, tổ chức hay làm nghề tự do?); Tính chất hành vi đã thực hiện (cướp, trộm cắp, giết người hay lừa đảo…); Nhân thân (tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân…); Sự ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc; Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý trước pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như liên hệ với người thân ở xa, mua vé đi xa…
Khi vận dụng các căn cứ để xét bị can, bị cáo có thể trốn cần lưu ý là không phải khi nào cũng có thể làm rõ được tất cả các nội dung trên mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và phải biết căn cứ vào nội dung nào là chủ yếu. Để quyết định việc tạm giam không nhất thiết phải làm rõ tất cả các nội dung trên, có thể chỉ một nội dung cũng đã đủ để nhận định là đối tượng sẽ trốn.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử: cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hay các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp “gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Việc xác định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên những căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện.
1. Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án khi có một trong số các căn cứ sau đây:
a. Bị can, bị cáo đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác mà vi phạm dẫn đến không đạt được mục đích của việc áp dụng.
b. Bị can, bị cáo, người bị kết án bị bắt theo lệnh truy nã;
c. Bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm mà xét thấy có thể phải chịu hình phạt tù và không có nơi cư trú rõ ràng hay có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hay cản trở điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội, trừ trường hợp được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, biện pháp ngăn chặn đặt tiền hay tài sản có giá trị để bảo đảm;
d. Bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị khởi tố, truy tố, xét xử đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do cố ý và có một trong các căn cứ quy định tại điểm a,b,c quy định tại khoản 1 điều này;
đ. Bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến đưới 18 tuổi bị khởi tố, truy tố, xét xử đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, nghiêm trọng do cố ý và có một trong các căn cứ quy định tại điểm a,b, c khoản 1 Điều này;
2. Giữ nguyên
3. Khi quyết định áp dụng biện pháp tạm giam, người có thẩm quyền quyết định áp dụng tạm giam phải có các tài liệu, chứng cứ nêu rõ đực căn cứ thực tế chứng minh sự cần thiết phải tạm giam theo quy định tại khoản 1 điều này;
4….”
Thứ ba. đối với căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội mặc dù Điều 303 đã có quy định dẫn chiếu đến Điều 88 và nhiều điều luật khác nhưng do sự dẫn chiếu nhiều điều luật, nhiều căn cứ đã dẫn đến sự coi nhẹ căn cứ tạm giam quy định tại Điều 88 và 79, người tiến hành tố tụng chỉ xem xét về độ tuổi và tội phạm mà đã thực hiện là áp dụng BPNC tạm giam. Điều này dẫn đến nhiều trường hợp bị can, bị cáo đang là hs, sv k có biểu hiện trốn tránh việc điều tra truy tố xét xử và thi hành án nhưng vẫn bị áp dụng bp tạm giam, không được thực hiện quyền học tập, nghiên cứu mà đáng ra họ chưa bị tước bỏ.
Chính những điều trên là nguyên nhân lớn dẫn đến việc áp dụng BPNC tạm giam trong thời gian qua còn nhiều khó khăn và vướng mắc. Do đó cần sửa đổi những căn cứ này theo tình thần sau:
- Quán triệt tinh thần các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng căn cứ áp dụng biện pháp tạm giamrõ ràng, cụ thể thống nhất trên cơ sở vừa đảm bảo quyền cơ bản của công dân vừa đảm bảo thực hiện hoạt động tố tụng có hiệu quả như nghị quyết số 49/NQ- TW ngày 2.6.2005 của bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp….
- Không sử dụng kết quả phân loại tội phạm như cơ sở độc lập để xây dựng căn cứ pá dụng biện pháp ngăn chặn mà coi bị can, bị cáo có thể cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét và quyết định biện pháp tạm giam, trường hợp cần thiết thì có thể căn cứ vào chế tài của quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm để áp dụng
- Sửa đổi Điều 177, 228, 243, 250, 287 theo hướng dẫn chiếu căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn về Điều 88 và 303.
- Cần nghiên cứu về han chế tạm giam đối với một số loại tội phạm. BLTTHS không quy định đối với những loại tội phạm nào thì có thể hạn chế tạm giam nên việc xem xét việc hạn chế tam giam chỉ căn cứ vào quy định Điều 88 BLTTHS và Điều 303 chứ không căn cứ vào các loại tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện … có thể hạn chế tam giam đối với một số loại sau:
+ Nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
+ Nhóm tội phạm về môi trường
+ Một số tui phạm thuộc nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu trừ các tội: cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản…
+ Một số tội phạm xâm phạm an toàn công cộng trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính…

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại Luận văn Kinh tế 4
D một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ tạm nhập tái xuất và kho ngoại quan của công t Luận văn Kinh tế 0
D Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật tố tụng dân sự: Lý luận và thực tiễn Luận văn Luật 0
A Biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam và thực tiễn áp dụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân Luận văn Luật 2
P Vai trò của viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong lu Luận văn Luật 0
B Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm : Luận Luận văn Luật 0
B Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam Luận văn Luật 2
J Tiểu luận: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam- Một số vấn đề lý luận và thực tiễ Luận văn Luật 0
T Tiểu luận: biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Luận văn Luật 0
B Tạm giam trong tố tụng hình sự việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp n Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top