classic_season

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

. Lời nói đầu
Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình thức khác nhau. Trong Kinh Cựu Ước – bộ sách lớn nhất, cổ nhất và nguyên vẹn nhất còn được lưu truyền đến ngày nay; người xưa đã chép lại rằng bản di chúc của Noe đã được viết bằng tay, rồi được ông đóng con dấu của mình lên để chứng thực; hay như việc Jacob, bằng lời nói, đã để lại cho Joseph phần tài sản gấp đôi so với những người con khác của mình... Có thể câu chuyện từ trong kinh sách tôn giáo không thể là một bằng chứng xác thực cho bất cứ một vấn đề mang tính thực tiễn nào, nhưng ít nhất từ những mẩu chuyện như thế, chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng: ngay trong lòng thế giới cổ đại, di chúc đã xuất hiện, và xuất hiện với rất nhiều hình thức đa dạng khác nhau, có thể bằng bản viết tay, cũng có thể chỉ bằng lời nói.
Ngày nay, mỗi Nhà nước, mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới lại có những qui định khác biệt về cùng một vấn đề của pháp luật dân sự là “hình thức của di chúc”. Hình thức của di chúc là cách biểu hiện ý chí của người lập di chúc; là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định; mặt khác, hình thức của di chúc lại rất đa dạng và phong phú, tùy thuộc vào qui định của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tựu trung lại thì hầu hết các nước trên thế giới trong đó có cả Việt Nam chỉ công nhận hai hình thức chính của di chúc đó là chúc thư và chúc ngôn hay còn gọi là di chúc bằng văn bản và di chúc miệng: Di chúc phải được lập bằng văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng…
(Trích Điều 649. BLDS).
B. Nội dung
I. Hình thức di chúc miệng:
1. Những qui định của pháp luật:
Di chúc miệng là một trong hai hình thức di chúc được pháp luật dân sự nước ta ghi nhận trong bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự Việt Nam qui định về di chúc miệng tại Điều 651 và tại khoản 5 Điều 652: “1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hay các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. 2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ”.
(Điều 651. BLDS)
“Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hay điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hay chứng thực.”
(Khoản 5. Điều 652. BLDS)
Như vậy, quyền lập di chúc miệng của công dân chỉ phát sinh trong những trường hợp cực kì đặc biệt theo qui định của pháp luật. Trường hợp đặc biệt đó được pháp luật qui định là: bị cái chết đe dọa do bệnh tật hay các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Do vậy, nếu một người bị cái chết đe dọa nhưng họ vẫn có thể lập di chúc bằng văn bản mà người đó lại di chúc miệng thì di chúc miệng đó không được pháp luật công nhận (không có giá trị pháp lí).
Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng này ghi chép lại, cùng kí tên hay điểm chỉ và phải đem đi công chứng hay chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng. Như vậy, người làm chứng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với di chúc miệng; có thể nói người làm chứng có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực cũng như tính hợp pháp của di chúc miệng. Số lượng người làm chứng ít nhất phải là hai người. Ngoài ra, những người làm chứng phải thực hiện các hành vi như: ghi chép lại, cùng kí tên hay điểm chỉ, đem đi công chứng hay chứng thực sau khi được nghe di chúc miệng.
Do là một hình thức di chúc đặc biệt nên pháp luật qui định về hình thức di chúc miệng với thủ tục hết sức chặt chẽ. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng, nếu người di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì mặc nhiên di chúc miệng bị hủy bỏ (coi như không có di chúc miệng). Như vậy, vấn đề về thời gian, vấn đề về nhận thức cũng như vấn đề về trạng thái thể chất, trạng thái tinh thần của người di chúc miệng sau khi có di chúc miệng là những vấn đề quan trọng, nó cũng quyết định đến hiệu lực của di chúc miệng. Xét về mặt sinh học: nếu người di chúc miệng chỉ sống được dưới ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng thì di chúc miệng có giá trị (nếu đã thỏa mãn các điều kiện, các qui định khác của pháp luật). Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc miệng còn sống thì giá trị cũng như hiệu lực của di chúc miệng phụ thuộc vào khả năng nhận thức của người di chúc miệng; cụ thể, có các khả năng sau có thể xảy ra:
- Nếu người di chúc miệng còn minh mẫn nhưng không sáng suốt thì di chúc miệng không mặc nhiên bị hủy bỏ.
- Nếu người di chúc miệng sáng suốt nhưng không minh mẫn thì di chúc miệng cũng không mặc nhiên bị hủy bỏ.
- Nếu người di chúc miệng còn minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng bị hủy bỏ.
Tóm lại, theo các qui định của Bộ luật dân sự 2005 thì di chúc miệng được coi là hợp pháp khi đáp ứng và đảm bảo được đầy đủ các điều kiện sau:
- Di chúc miệng chỉ được lập trong tình trạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hay các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản được.
- Người di chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng.
- Ngay sau khi nghe người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì những người làm chứng phải ghi chép lại, kí tên hay điểm chỉ và đem đi công chứng hay chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ có di chúc miệng.
- Di chúc miệng chỉ có giá trị khi mà người di chúc miệng sống không quá được ba tháng kể từ ngày di chúc miệng hay người di chúc miệng sống trên ba tháng nhưng không còn minh mẫn sáng suốt.
Nếu như ở đa số các bang hình thức di chúc dưới dạng tự bút được công nhận phổ biến, nhưng ở một số bang khác lại chỉ chấp nhận hình thức này cho một số cá nhân, như quân nhân, thủy thủ...
Nói tóm lại, trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ tồn tại những hình thức di chúc như sau:
- Di chúc tự bút do người lập di chúc viết tay hoàn toàn, từ nội dung di chúc tới điền ngày, tháng, năm và kí tên. Di chúc này được công nhận khi xác định được chữ viết trong di chúc thực sự là chữ của người lập di chúc.
- Di chúc đánh máy, thông thường là các biểu mẫu di chúc do các chính quyền bang phát, hay là các di chúc do luật sư soạn thảo. Loại di chúc này thường chỉ cần người lập di chúc điền ngày, tháng, năm lập di chúc và ký tên. Di chúc có hiệu lực khi có ít nhất 2 người làm chứng hay được cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm chứng.
- Di chúc miệng, thường chỉ được áp dụng khi người lập di chúc không thể thực hiện được các hình thức khác, hay chỉ được công nhận đối với một số cá nhân nhất định.
- Di chúc phi văn bản khác, loài này thường là các băng đĩa ghi âm, ghi hình. Trên lý thuyết phần lớn bộ luật các bang đều không thừa nhận đây là một hình thức di chúc, nhưng trong thực tế xét xử, các tòa án vẫn coi đây là một di chúc đặc biệt, chỉ cần nó thỏa mãn được các điều kiện: nội dung có liên quan trực tiếp đến sự việc; di chúc được làm với tình trạng đầy đủ sức khỏe và minh mẫn tình thần của người lập di chúc, thể hiện được ý chí cá nhân của người lập di chúc, và được tòa án xác nhận là hoàn toàn phù hợp.
Sau khi xem xét quy định về hình thức di chúc của các nước như đã trình bày ở trên đây, ta có thể thấy một số điểm tương đồng đáng lưu ý như sau:
1. Phần lớn các quốc gia đều thừa nhận có 2 hình thức di chúc chủ yếu, là hình thức văn bản và hình thức lời nói.
Thực tế không phải lúc nào người ta cũng có thể viết được di chúc dưới dạng văn bản. Có thể do trình độ học vấn(mù chữ), có thể do yếu tố thể chất, sức khỏe(mù lòa, què cụt, dị tật,…), có thể do truyền thống, tập tục dân tộc( người dân vẫn quen với cách thức thừa kế như từ xưa), và chủ yếu là do yếu tố bất ngờ, cấp thiết của tình huống( lâm bệnh nặng, bị thương nặng dẫn đến không còn khả năng viết, lập di chúc; có mặt trên con tàu đang đắm...) ... chính những nguyên nhân như vậy đã buộc nhà làm luật phải chấp nhận cho chúc ngôn là một hình thức di chúc, bên cạnh hình thức có giá trị cao hơn, là chúc thư, dù đã ràng buộc nó với nhiều điều kiện khác nhau.
2. Cũng xuất phát từ những yếu tố khó khăn như đã kể ra trên, luật của các quốc gia đều có qui định về các trường hợp lập chúc thư mà không cần có người làm chứng, hay không cần có sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông thường, yêu cầu quan trọng nhất của chúc thư trong mọi hệ thống pháp luật đều là phải tuân thủ đủ 3 nguyên tắc: người lập di chúc phải có năng lực chủ thể, tức là phải đạt đến một độ tuổi nhất định, có sự phát triển hoàn toàn bình thường về thể chất và tinh thần...; người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện, không chịu sự tác động từ bất cứ người nào, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép; nội dung (có thể kèm theo hình thức) của bản di chúc không đi trái lại các qui định của pháp luật, không chống lại các nguyên tắc đạo đức chung của toàn xã hội.
Tuy nhiên, giữa mỗi quốc gia cũng có những sự khác biệt tương đối giữa các qui định về hình thức di chúc.
- Luật của Pháp không thừa nhận chúc ngôn là hình thức di chúc hợp pháp, không giống như ở đa số các nước khác. Một vài bang ở Hoa Kỳ không thừa nhận chúc ngôn, nhưng trong thực tiễn ở tòa án, các án lệ về chúc ngôn vẫn được dẫn chiếu tới để xét xử. Nguyên nhân của hiện tượng này, có thể bắt nguồn từ tình hình xã hội lúc biên soạn các bộ luật ( thời điểm năm 1804, lúc Bộ luật dân sự Pháp được biên soạn, đó là một thời kỳ của tập quán chính trị - pháp lý địa phương ( Lousiana là bang ở Hoa Kỳ không công nhận chúc ngôn, bắt nguồn từ việc luật pháp của bang này rối ren, phức tạp với chiến tranh liên miên, nên việc chấp nhận di chúc chỉ bằng một lời nói khó hội tụ đủ các căn cứ xác đáng, dễ dẫn đến tình trạng kiện tụng kéo dài ).
IV. Một vài nhận xét và kiến giải với vấn hoàn thiện các qui định về hình thức của di chúc trong pháp luật Việt Nam:

Có thể nhận thấy qui định về việc vẫn công nhận hình thức di chúc miệng là một qui định hết sức tiến bộ và mang tính chất “đón đầu”, bởi nó đáp ứng được nhu cầu rất phức tạp của đời sống xã hội, ngoài ra lại phù hợp với suy nghĩ của dân ta là ngại chuyện giấy tờ phức tạp.
Chúc thư bí mật được một số nước công nhận, còn một số nước thì không (trong đó có Việt Nam chúng ta). Điều này có nguồn gốc tùy vào phong tục tập quán của mỗi dân tộc và đặc điểm, nhu cầu riêng của từng xã hội.
Xem xét trong bối cảnh nước ta hiện nay, có thể khẳng định là không cần đến chúc thư bí mật, bởi nó không phù hợp với phong tục, truyền thống, tập quán của người dân Việt Nam ta, vả lại điều này cũng là không cần thiết khi pháp luật đã cho phép người lập di chúc có thể tự viết di chúc mà không cần công chứng, làm chứng thì cũng có thể đảm bảo được tính bí mật của bản di chúc.
Các loại hình di chúc phi văn bản khác, như băng đĩa ghi hình, ghi âm, mới chỉ được chấp nhận ở một số bang ở Hoa Kỳ. Đó là do đây là hình thức ghi lại ý chí của con người mới xuất hiện trong thời gian gần đây; việc xác định băng đĩa là rất khó: khó xác định được thời gian, khó xác định thông tin là chính xác hay giả mạo... Hơn thế nữa, việc giả mạo này là hoàn toàn đơn giản và dễ dàng đối với trình độ công nghệ kĩ thuật như thời nay.
Tuy vậy, dù hình thức di chúc này chưa được phổ biến trên thế giới, nhưng nước ta cũng nên nghiên cứu để áp dụng, bởi sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật là đòi hỏi bức thiết của ngày nay, nhằm theo kịp sự biến đổi rất nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội.
C. Lời kết:
“ Hình thức di chúc là phương tức biểu hiện ý chí của người lập di chúc; là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc ”. Bởi vậy, nghiên cứu về hình thức di chúc có ý nghĩa và vai trò không nhỏ trong việc hoàn thiện chế định về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Hình thức chính thể của một số nước trên thế giới Văn hóa, Xã hội 0
N Đặc điểm về hình thức của mô thức thông tin trên chuyên san Hồ sơ Sự kiện Luận văn Kinh tế 0
Z Hình thức chuyển tải thông tin về hoạt động kinh tế - Chính trị của Việt Nam với tư cách là thành vi Luận văn Kinh tế 0
R Phân tích quy định của pháp luật hiện hành về hình thức khuyến mại bằng hàng mẫu. Phân biệt hai hình Luận văn Luật 0
R hình thức hành nghề của luật sư nước ngoài tại VN Luận văn Luật 0
G Tình hình hoạt động của Công ty liên doanh việt pháp sản xuất thức ăn gia súc Proconco Luận văn Kinh tế 0
I Tình hình hoạt động và phát triển tại Thức trạng hoạt động trong những năm gần đât của công ty liên Luận văn Kinh tế 0
T Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện hình thức công ty cổ phần và xí nghiệp cổ phần trong chủ Luận văn Kinh tế 0
T Hoàn thiện công tác xây dựng chương trình và lựa chọn hình thức đào tạo của công ty Điện lực Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
Q Các hình thức chuyển tải thông tin về sự đi lên của nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc sau kỳ World cu Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top