vnleningrat

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
A. LỜI NÓI ĐẦU

Trải qua những năm đổi mới, hệ thống pháp luật của nước ta ngày càng phát triển, nhiều văn bản pháp luật được ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho công cuộc đổi mới đất nước, trong đó có sự thay đổi của Bộ luật dân sự năm 1995 bằng Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Trong Bộ luật dân sự năm 2005 có rất nhiều điểm mới, không thể không nhắc đến đó là những điểm mới trong các quy định về quyền sở hữu.
Bài viết này có nội dung chính là phân tích và so sánh các quy định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005.

B. NỘI DUNG

I. Phân tích quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005
1. Phân tích quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995
Trong Bộ luật dân sự năm 1995, quyền sở hữu được quy định thành một chế định pháp lý nói về địa vị pháp lý của người sở hữu tài sản, các căn cứ xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền sở hữu, các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu. Quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 được quy định trong phần thứ hai “Tài sản và quyền sở hữu” gồm có 7 chương, 113 Điều (từ Điều 172 đến Điều 284). Tuy nhiên, chúng ta muốn hiểu rõ hơn về Quyền sở hữu thì phải tham khảo thêm các phần khác trong Bộ luật này.
Điều 173 quy định, quyền sở hữu bao gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác có đủ ba quyền trên.
Điều 174 đến Điều 177 của Bộ luật dân sự năm 1995 nêu lên khái quát các nguyên tắc pháp lý cơ bản đối với quyền sở hữu.
Về đối tượng của quyền sở hữu – tài sản, được quy định tại Điều 172 : Tài sản có thể là vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Mỗi loại tài sản nói ở trên đều có bản chất, chức năng sử dụng và giá trị kinh tế khác nhau cho nên cac hành vi mà chủ sở hữu được thực hiện đối với các tài sản đó cũng khác nhau. Sự phân biệt về các loại tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 từ Điều 181 đến Điều 187.
Nội dung của quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 được hiểu là toàn bộ các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của mình cũng như các quyền của người khác không phải là chủ sở hữu đối với chính tài sản đó; được trình bày trong các quy định từ Điều 189 đến Điều 204, ngoài ra cần tham khảo thêm chương VII “ Những quy định khác về quyền sở hữu” (từ Điều 267 đến 284). Nội dung của quyền sở hữu bao gồm : quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
- Quyền chiếm hữu được quy định từ Điều 189 đến Điều 197: quyền chiếm hữu của chủ sở hữu giữ một vai trò rất quan trọng trong các quyền của chủ sở hữu vì nó tạo ra điều kiện khách quan để người đó thực hiện vai trò làm chủ, chế ngự tài sản, không những chỉ đối với tài sản hiện có mà còn tạo ra khả năng kiểm soát đối với hoa lợi, lợi tức từ nó sinh ra.
- Quyền sử dụng của chủ sở hữu được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 từ Điều 198 đến Điều 200 : là các quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản của mình.
- Quyền định đoạt của chủ sở hữu được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 từ Điều 201 đến Điều 204 : là quyền được chuyển giao quyền làm chủ đối với tài sản của mình cho người khác hay từ bỏ quyền làm chủ đối với một đồ vật nhất định.
Điều 205 đến Điều 240 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về các hình thức sỏ hữu . Xuất phát từ 3 chế độ sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân, Bộ luật dân sự năm 1995 đã quy định về 7 hình thức sở hữu được Nhà nước công nhận : sở hữu toàn dân; sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; sở hữu hỗn hợp; sở hữu chung. Mỗi hìn thức sở hữu, Bộ luật dân sự năm 1995 lại có các điều luật quy định cụ thể về đặc điểm riêng của mỗi loại, ví dụ quy định về tài sản của mỗi hình thức sở hữu, nguyên tắc chiếm hữu sử đụng định đoạt riêng của mỗi loại tài sản.
Điều 241 đến Điều 262 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về “Xác lập và chấm dứt quyền sở hữu”.
- Theo nguyên tắc quy định trong Bộ luật dân sự, người thu nhận một đồ vật chỉ trở thành chủ sở hữu của vật đó nếu có những căn cứ pháp lý nhất định. Các căn cứ pháp lý để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản được quy định rất phong phú và khác nhau trong các Điều 241 đến 255 – đây là những căn cứ xác lập quyền sở hữu chung cho các hình thức sở hữu, tuy vậy việc xác lập quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước đia diện còn dựa trên những căn cứ pháp lý riêng, không thể áp dụng cho việc xác lập quyền sở hữu của các hình thức sở hữu khác như tịch thu, trưng mua..
- Các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu được quy định từ Điều 256 đến Điều 262 của Bộ luật.
Điều 263 đến Điều 266 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về “bảo vệ quyền sở hữu” : chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp khi có tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật thì có quyền đòi lại tài sản; khi bị người khác cản trở việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu trái pháp luật thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Các quy định về quyền sở hữu được đề cập trong Bộ luật dân sự năm 1995 về cơ bản đã thực sự đi vào đời sống xã hội, đã tạo ra chuẩn mực pháp lý, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, an toàn pháp lý cho các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể, qua đó góp phần ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được, Bộ luật dân sự năm 1995 vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần thay đổi như : một số quy định đã lạc hậu so với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, do có sự thay đổi khách quan của các quan hệ được điều chỉnh và thiếu một số quy định đề điều chỉnh các quan hệ dân sự mới phát sinh, ví dụ như : trong phần “những quy định khác về quyền sở hữu” các nội dung chưa được làm rõ, nhất là các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản...

2. Phân tích quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005
Được xây dựng dựa trên cơ sở của Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự năm 1995, những thay của Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001, và nhằm sửa đổi những hạn chế nhìn thấy của Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời, phù hợp với tình hình xã hội hiện tại. Trong Bộ luật dân sự năm 2005 , quyền sở hữu được quy định tại phần thứ hai “ Tài sản và quyền sở hữu” bao gồm 7 chương (từ chương X đến chương XVI) với 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279).
Những quy định chung về quyền sở hữu từ Điều 164 đến Điều 173, quy định về chủ thế của quyền sở hữu là những người tham gia quan hệ pháp luật dân sự : Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân; các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; các tập thể; các công dân; các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; các tổ chức kinh tế tư nhân. Khách thể của quyền sở hữu là tài sản (được quy định từ Điều 174 đến Điều 181 Bộ luật dân sự năm 2005). Ngoài ra, Bộ luật dân sự còn quy định những tài sản chỉ thuộc sở hữu riêng biệt.
Nội dung của quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 được quy định từ Điều 182 đến Điều 199 dựa trên cơ sở chế độ sở hữu được khẳng định trong Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định các hình thức sở hữu bao gồm : sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (từ Điều 200 đến Điều 232).
Điều 233 đến Điều 254 quy định về “Xác lập và chấm dứt quyền sở hữu”. Dựa vào nguồn gốc của những sự kiện pháp lý do Bộ luật dân sự quy định, căn cứ để xác lập quyền sở hữu bao gồm : xác lập theo hợp đồng hay giao dịch một bên; xác lập theo quy định của pháp luật; xác lập theo những căn cứ riêng biệt. Còn về chấm dứt quyền sở hữu, Bộ luật dân sự quy định có thể chấm dứt quyền sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu, hay theo những căn cứ do pháp luật quy định.
Điều 255 đến Điều 261 là các quy định về bảo vệ quyền sở hữu : người khởi kiện để yêu cầu Toàn án bảo vệ quyền lợi cho chính mình là người bị xâm phạm quyền sở hữu căn cứ theo quy định của Pháp luật(kiện đòi lại tài sản; kiện yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp; kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại). Người có quyền sở hữu bị xâm phạm có thể là chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp.
Điều 262 đến Điều 279 Bộ luật dân sự năm 2005 là những quy định khác về quyền sở hữu. Bộ luật dân sự cho phép chủ sở hữu có được những điều kiện thuận lợi khỉ sử dụng các quyền của mình đối với tài sản của người khác và đồng thời cũng phải chịu sự ràng buộc bởi một số nghĩa vụ nhất định để các chủ thể khác được thuận tiện khi sử dụng quyền của mình.

Trên đây là những phân tích khái quát, để hiểu rõ hơn về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 ta đi so sánh chúng với nhau trong phần tiếp sau đây :

II. So sánh quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005
So với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, cơ cấu, bố cục của quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 không có gì thay đổi, vẫn nằm ở phần thứ hai, bao gồm 7 chương : những quy định chung về quyền sở hữu; các loại tài sản; nội dung quyền sở hữu; các hình thức sở hữu; xác lập, chấm dứt quyền sở hữu; bảo vệ quyền sở hữu; những quy định khác về quyền sở hữu.

1. Về khái niệm sở hữu và quyền sở hữu.
( Bao gồm các Điều 172 đến 180 của Bộ luật dân sự năm 1995 và các Điều 164 đến 173 của Bộ luật dân sự năm 2005)
Điều 164 Bộ luật dân sự 2005 : Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.

bất động sản của mình, mặc dù đã biết hay phải biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại.
Việc sửa đổi bổ sung này là cần thiết vì cần phân biệt tài sản sáp nhập là động sản hay bất động sản với hậu quả pháp lý khác nhau.

b. Xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn dấu, bị chìm đắm được tìm thấy và xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên
Điều 240, 241 Bộ luật dân sự năm 2005 có hai điểm được sửa đổi so với Điều 248, 249 Bộ luật dân sự năm 1995 :
- Về xác định giá trị của vật :
Vật được tìm thấy không phải là di tích lịch sử, văn hoá, mà có giá trị đến mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu vật tìm thấy có giá trị lớn hơn mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc Nhà nước.
Hay Sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai về vật nhặt được mà không xác định được chủ sở hữu hay chủ sở hữu không đến nhận, nếu vật có giá trị đến mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được; nếu vật có giá trị lớn hơn mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc Nhà nước.
=> qua đó, giá trị của vật được xác định cụ thể để thuận lợi hơn trong việc áp dụng pháp luật.
- Điều 248, 249 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định : vật được tìm thấy (hay vật bị đánh rơi, bị bỏ quên) là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa... thì thuộc Nhà nước
Theo quy định tại Điều 240,241 Bộ luật dân sự năm 2005 thì “cổ vật” đã được bỏ, có nghĩa cổ vật không chỉ thuộc sở hữu của Nhà nước mà còn có thể thuộc sở hữu của các chủ thể khác.

C. KẾT LUẬN

Bộ luật dân sự năm 2005 nói chung và quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 nói riêng, đã quán triệt và cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, và nội dung của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung đã đi vào cuộc sống và được vận dụng thành công nhằm phát huy tác dụng của Bộ luật dân sự trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức,...


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó Môn đại cương 0
D PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH IMC của bột GIẶT OMO và PHÁC THẢO CHƯƠNG TRÌNH IMC Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích môi trường Singapore và phương thức xâm nhập cho cà phê hạt Việt Nam Nông Lâm Thủy sản 0
D Kỹ thuật phân tích và kiểm soát chất Bia thành phẩm Nông Lâm Thủy sản 0
D Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ an toàn thực phẩm và các khuyến cáo cho chuỗi cung ứng thủy sản tại Việt Nam Ngoại ngữ 0
D Phân tích và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích tình hình tài chính và kết quả HĐKD của CTCP Thủy Sản Bạc Liêu năm 2018 Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích liên minh chiến lược của apple: case study với microsoft và paypal Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích và định giá cổ phiếu công ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp sông đà Luận văn Kinh tế 0
D Nghiên cứu, phân tích giải pháp mobile backhaul và ứng dụng triển khai trên mạng viễn thông của VNPT tuyên quang Công nghệ thông tin 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top