huongphusa_1504

New Member

Download Thực hiện Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu miễn phí





Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Bộ luật dân sự Việt Nam, “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Khoản tiền phải hoàn trả do không hoàn trả được tài sản bằng hiện vật cần được xác định như thế nào? Kinh nghiệm trong pháp luật nước ngoài cho thấy đây là một vấn đề không đơn giản. Theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng viện dẫn ở trên, trong trường hợp như trên thì cần trả một khoản tiền “hợp lý”. Khi nào thì có thể coi đây là một khoản tiền “hợp lý”? Bộ nguyên tắc trên không cho lời giải đáp. Trong thực tế pháp lý Pháp, một số Tòa phúc thẩm đã buộc bên nhận tài sản mà hiện nay không hoàn trả được thanh toán cho bên kia giá của tài sản này. Cách giải quyết như vậy không được Tòa án tối cao Pháp chấp nhận. Ví dụ, trong một bản án ngày 12/12/1979, Phòng dân sự số 1 Tòa án tối cao Pháp hủy một bản án phúc thẩm đã giải quyết như trên bởi, theo Tòa án tối cao Pháp, cách giải quyết đó “dẫn đến thực hiện hợp đồng vô hiệu”. Về vấn đề này trong vụ việc chúng ta đang nghiên cứu, Tòa phúc thẩm buộc Công ty ô tô Đắk Lắk hoàn trả cho Công ty cà phê Easim những gì mình nhận được như quy định chung về hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Nhưng theo Tòa án tối cao, “trong trường hợp này, Công ty cà phê Easim phải thanh toán số tiền còn thiếu theo hợp đồng cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk”. Cụ thể, Tòa án tối cao “buộc Công ty cà phê Easim phải thanh toán trả cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk số tiền còn thiếu theo hợp đồng là 120.600.000 đồng”. Như vậy, theo Tòa án tối cao, không những Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk không phải hoàn trả khoản tiền mình đã nhận mà còn được nhận khoản tiền chưa được thanh toán theo hợp đồng.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU
Hợp đồng là thoả thuận giữa các bên làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích hợp pháp mà họ mong muốn. Khi giao kết, các bên phải tôn trọng một số điều kiện. Thực tế cho thấy, nhiều hợp đồng đã không tôn trọng một trong những điều kiện này và bị tuyên bố vô hiệu. Theo pháp luật của Việt Nam cũng như của nhiều nước, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nhưng trong một số trường hợp, việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được vì nhiều lý do như tài sản đã được tiêu thụ, bị mất, bị bán lại cho người khác. Theo pháp luật của Anh, Scotland và Ailen, khi không thể hoàn trả được bằng hiện vật, quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng không còn nữa. Tuy nhiên theo pháp luật của các nước Châu Âu lục địa, trong những trường hợp như vậy, hợp đồng vẫn có thể bị tuyên bố vô hiệu và việc hoàn trả được thanh toán bằng giá trị tương đương. Giải pháp này cũng được thừa nhận trong một số Bộ quy tắc về hợp đồng. Ví dụ, theo Điều 4:115 của Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, “nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được thì hoàn trả bằng một khoản tiền hợp lý”. Tương tự, theo Điều 3.17 Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit, “những gì không thể hoàn trả được bằng vật chất thì phải được hoàn lại bằng giá trị”. Khi không thể hoàn trả bằng hiện vật, việc hoàn trả bằng giá trị cũng được thừa nhận ở Việt Nam. Theo Điều 39, khoản 2, điểm a, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, “trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền” và, theo Điều 137, khoản 2, BLDS (2005), “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Như vậy, cũng như pháp luật của nhiều nước, theo pháp luật Việt Nam, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Bộ luật dân sự và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định như vậy nhưng lại không nêu rõ khi nào “không hoàn trả được bằng hiện vật” và “hoàn trả bằng tiền” được hiểu là bao nhiêu. Do văn bản pháp luật không quy định rõ hai khái niệm này nên, trong thực tế, Tòa án Việt Nam đã giải quyết theo hướng buộc các bên thực hiện hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi tài sản được giao phù hợp với nội dung của hợp đồng: ở đây tài sản đã được giao, khoản tiền đã nhận không phải hoàn trả lại và khoản tiền chưa thanh toán theo hợp đồng phải tiếp tục được thanh toán. Việc giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng mua bán lắp đặt dây chuyền chế biến cà phê sau đây cho thấy điều vừa nêu [1]. Ngày 04/09/1997, Công ty cà phê Easim và Công ty ô tô Đắk Lắk cùng nhau ký kết hợp đồng kinh tế số 39/HĐKT. Theo hợp đồng, Công ty ô tô Đắk Lắk nhận chế tạo hệ thống chế biến cà phê cho Công ty cà phê Easim; tổng giá trị hợp đồng là 948.000.000 đồng. Hai bên đã ký biên bản nghiệm thu bàn giao công trình; Công ty cà phê Easim đã thanh toán 821.376.000 đồng và hiện còn nợ Công ty ô tô Đắk Lắk 126.600.000 đồng. Các bên có tranh chấp và Tòa án đã tuyên hợp đồng vô hiệu. Theo Tòa án nhân dân tối cao, “tại thời điểm ký hợp đồng số 39/HĐKT, cũng như trong quá trình thực hiện hợp đồng và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, việc Tòa án cấp phúc thẩm kết luận hợp đồng kinh tế số 39/HĐKT vô hiệu toàn bộ là phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế” (Quyết định 04/2004 nêu trên). Về việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn phần, chúng tui không đi vào bình luận. Ngược lại, chúng tui sẽ phân tích, bình luận việc giải quyết hậu quả của hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Sau khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn phần, Tòa phúc thẩm “buộc Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk phải hoàn trả số tiền đã nhận là 821.376.000 đồng cho Công ty cà phê Easim và buộc Công ty cà phê Easim phải hoàn trả hệ thống dây chuyền chế biến cà phê tươi, sấy cà phê cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk”. Như vậy, Tòa phúc thẩm đã áp dụng nguyên tắc chung của việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì mình đã nhận trong quá trình thực hiện hợp đồng. Giải pháp này không được Tòa án tối cao chấp nhận. Theo Tòa án tối cao, việc giải quyết của Tòa phúc thẩm “là không đúng với hướng dẫn tại điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ- HĐTP ngày 27/05/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì hai dây chuyền cà phê này đã được Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk chế tạo, lắp đặt từ năm 1997; ngày 08/06/1999 hai bên đã lập tờ trình số 66/TT gửi Tổng công ty cà phê Việt Nam với nội dung: xin hoàn thiện một số chi tiết thiết bị và giúp cho hai đơn vị có điều kiện thanh toán kinh phí đã đầu tư thi công công trình. Tại tờ trình này hai bên đều khẳng định: “Đánh giá chất lượng sản phẩm: chất lượng chế biến đạt yêu cầu xuất khẩu, vụ chế biến 1998 -1999 chế biến được 100 tấn cà phê nhân thóc khô và đã được bán…”. Mặt khác, tại biên bản nghiệm thu thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký. Như vậy, hai dây chuyền cà phê này đã được Công ty cà phê Easim đưa vào khai thác, sử dụng và chế biến được cà phê để xuất bán; do đó, không thể coi hai dây chuyền cà phê đã lắp đặt tại Công ty cà phê Easim chưa được đưa vào khai thác, sử dụng, được bảo quản nguyên vẹn như Bản án kinh tế phúc thẩm số 03/2003/KTPT ngày 01/08/2003 đã nhận định. Đối với Tòa án tối cao, “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký” và, do đó, tài sản coi như “đã được đưa vào khai thác, sử dụng”; vì vậy, đây là trường hợp “không thể hoàn trả được bằng hiện vật” theo điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán [2]. Như vậy, Nghị quyết số 04/2003 coi trường hợp tài sản “đó được đưa vào khai thác, sử dụng” là một trường hợp “không hoàn trả được bằng hiện vật” và Quyết định số 04/2004 coi trường hợp “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký” là một trường hợp tài sản “đó được đưa vào khai thác, sử dụng”. Từ đó chúng ta thấy, dựa vào hai lần giải thích, cụ thể là giải thích trong Nghị quyết số 04/2003 cụm từ “không hoàn trả được bằng hiện vật” của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và giải thích trong Quyết định số 04/2004 cụm từ “đó được đưa vào khai thác, sử dụng” của Nghị quyết số 04/2003, Tòa án tối cao không buộc các bên hoàn trả lại cho nhau t
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
P [Free] Phân tích tình thực hiện chi phí kinh doanh tại công ty trách nhiệm hữu hạn máy tính Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
L [Free] Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Thực trạng của việc thực hiện Nghị Định 61/ CP trên địa bàn Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Thực trạng tình hình quản lý và những thách thức đối với một nhà quản lý hiện nay Luận văn Kinh tế 0
G [Free] Giải pháp thực hiện kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thời kỳ 2001-2005 Luận văn Kinh tế 0
C [Free] Kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton thực hiện Luận văn Kinh tế 0
N [Free] Những giải pháp thúc đẩy thực hiện kế hoạch quản lý, sửa chữa, bảo trì kết cấu hạ tầng Đường Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 200 Luận văn Kinh tế 0
G [Free] Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạ Luận văn Kinh tế 0
K [Free] Báo cáo Tình hình thực hiện các nghiệp vụ hạch toán kế toán của công ty TNHH Tân Hoàng Linh Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top