Clark

New Member

Download Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự miễn phí





Trở lại với khái niệm lỗi trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật dân sự Việt Nam. Theo quan điểm của chúng tôi trong Luật dân sự không thể coi lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Ví dụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa thì người mua phải trả tiền khi nhận hàng. Nếu người mua không trả tiền tức là có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự do luật định. Không thể dùng trạng thái tâm lý để định giá lỗi của người mua như quan niệm truyền thống về lỗi. Để xác định lỗi của người mua chúng ta sử dụng tiêu chí khác, tiêu chí đó là đối với người bình thường khi mua hàng thì phải thanh toán, thế nhưng người này đã không thanh toán tiền mua hàng, vì vậy bị coi là có lỗi, lỗi này được coi là lỗi cố ý. Một ví dụ khác, một người cho người khác (không có bằng lái) mượn xe máy nhưng không hỏi người này có bằng lái hay chưa, và người này khi lưu thông gây tai nạn. Đương nhiên theo luật thì người cho mượn xe phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cùng người mượn xe.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

KHÁI NIỆM LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
)
Trong khoa học pháp lý tồn tại quan điểm cho rằng cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp luật dân sự là các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật dân sự. Một trong những yếu tố cấu thành đó là lỗi của người vi phạm. Theo nguyên tắc chung thì lỗi là điều kiện cần thiết để áp dụng trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Chính vì vậy mà quy phạm về trách nhiệm do có lỗi được đưa vào Bộ Luật dân sự. Khoản 1 Điều 309 Bộ Luật dân sự 1995 (BLDS) quy định rằng, người không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hay lỗi vô ý trừ trường hợp có thoả thuận khác hay pháp luật có quy định khác. Mặc dù pháp luật dân sự coi lỗi là điều kiện tiên quyết để áp dụng trách nhiệm dân sự nhưng lại không đưa ra định nghĩa rõ ràng về lỗi. Điều này đã gây ra một số bất cập trong việc xác định trách nhiệm khi có hành vi vi phạm pháp luật dân sự, đặc biệt là trong trách nhiệm dân sự liên đới. Trong một số giáo trình luật dân sự cũng như trong một số ấn phẩm pháp lý khác các tác giả định nghĩa lỗi như là căn cứ để xác định trách nhiệm dân sự dựa trên trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra [1]. Khi so sánh khái niệm lỗi ở trên với định nghĩa lỗi trong khoa học luật hình sự cũng như so sánh khoản 2 Điều 309 BLDS 1995 với Điều 9 và Điều 10 Bộ Luật hình sự 1985 (BLHS) chúng ta nhận thấy rằng các tác giả trên và người soạn thảo khoản 2 Điều 309 BLDS 1995 đã lấy toàn bộ ý tưởng dùng để xây dựng yếu tố lỗi trong cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS. Theo quan điểm của chúng tui thì cách xác định và đánh giá lỗi để áp dụng trách nhiệm dân sự hoàn toàn khác với cách xác định và đánh giá lỗi để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự là hai chế định hoàn toàn khác nhau và được xây dựng trên những nguyên tắc hoàn toàn khác nhau, vì vậy không thể xây dựng định nghĩa lỗi trong trách nhiệm dân sự dựa trên cơ sở định nghĩa lỗi trong trách nhiệm hình sự.  Theo quan điểm của chúng tui thì cần thiết phải có một định nghĩa đúng đắn về lỗi trong pháp luật dân sự. Theo Luật La Mã, lỗi (Culpa) là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu: “Không có lỗi nếu như tuân thủ tất cả những gì được yêu cầu”. Trong Luật La Mã, lỗi cũng được phân chia thành lỗi cố ý (dolus) và lỗi vô ý (culpa) và nói chung giống quy định của khoản 2 Điều 309 BLDS Việt Nam. Tuy nhiên trong Luật La Mã có một điều khác biệt đó là trong trường hợp lỗi cố ý thì thỏa thuận của các bên về miễn trừ trách nhiệm không có hiệu lực. Trong Luật La Mã lỗi vô ý được nói đến nhiều hơn bởi rằng lỗi cố ý đã quá rõ ràng để áp dụng trách nhiệm. Được coi là lỗi vô ý nếu như không nhìn thấy trước được những gì mà mọi người chu đáo, cẩn thận có thể nhìn thấy. Lỗi vô ý cũng được chia thành hai loại. Lỗi vô ý không đáng kể tức là người có lỗi không thể hiện mức độ quan tâm chu đáo mà một người chủ nhân hậu hay một người đứng đầu chu đáo phải có. Lỗi vô ý nghiêm trọng tức là khi người có lỗi không thể hiện được mức độ quan tâm cần có ở tất cả mọi người trong hoàn cảnh tương tự, mà trong hành động (không hành động) của họ không thể hiện được sự hiểu biết tất cả những gì mà những người bình thường khác đều biết được [2]. Các Luật gia La Mã xây dựng kiểu người chu đáo và cần mẫn để làm tiêu chuẩn khi xác định mức độ quan tâm, chu đáo của người vi phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như mức độ trách nhiệm của họ. Vì lỗi vô ý không đáng kể là sự không tuân thủ những tiêu chuẩn do các luật gia La Mã quy định nên loại lỗi này được gọi là lỗi theo tiêu chuẩn trừu tượng.  Các nhà làm luật La Mã còn nói đến một loại lỗi vô ý nữa tức là lỗi được xác định theo tiêu chuẩn cụ thể. Khi người vi phạm không thực hiện sự quan tâm phải có như khi thể hiện nó trong công việc của mình. Như vậy Luật La Mã không đả động gì đến trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra khi xác định lỗi. Chúng ta thấy rằng các luật gia La Mã trên cơ sở các điều kiện thực tế thời bấy giờ đã đưa ra khái niệm lỗi hợp lý trong trách nhiệm dân sự. Khái niệm lỗi trong Luật dân sự cũng như trong khoa học pháp luật dân sự của các nước Châu Âu lục địacơ bản giống với khái niệm lỗi được định nghĩa trong luật dân sự La Mã. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi rằng các hệ thống pháp luật nói trên được xây dựng trên cơ sở các quy định của Luật La Mã. Pháp luật của các nước Châu Âu lục địa coi lỗi của người vi phạm nghĩa vụ là điều kiện cơ bản của trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ. Luật dân sự của các nước này xuất pháp từ nguyên tắc suy đoán có lỗi, tức là người vi phạm phải chứng minh rằng mình không có lỗi. Ví dụ: Điều 1147 BLDS Cộng hòa Pháp, Mục 282 BLDS của Đức, đều quy định: người có quyền chỉ phải chứng minh rằng người có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình. Mặc dù pháp luật của các nước nói trên không định nghĩa khái niệm lỗi, nhưng có quy định các hình thức lỗi khác nhau: Cố ý và vô ý. Để phân biệt các hình thức lỗi, người ta sử dụng tiêu chí là mức độ quan tâm chu đáo mà người có nghĩa vụ cần thể hiện khi thực hiện nghĩa vụ. Ở đây các nhà làm luật không nói đến khả năng của một người có nghĩa vụ cụ thể mà chỉ nói đến những tiêu chuẩn trừu tượng: Đó là sự thể hiện sự quan tâm e sợ phù hợp với tập quán lưu thông dân sự hay đặc trưng của người chủ cần mẫn. Trong luật dân sự của Đức tiêu chuẩn quan tâm đúng đắn của thương gia lương thiện được sử dụng để xác định lỗi của người vi phạm nghĩa vụ (Mục 346 BLDS Đức). Trong một số nghĩa vụ riêng biệt mang tính chất không hoàn lại người ta sử dụng tiêu chí ít khắt khe hơn trong việc đánh giá hành vi của người vi phạm nghĩa vụ, cụ thể là mức độ quan tâm mà người có nghĩa vụ thể hiện trong công việc của chính mình, để thay thế cho tiêu chuẩn trừu tượng là sự quan tâm đặc trưng của người chủ tốt hay phù hợp với tập quán của lưu thông dân sự kinh tế. Quan điểm này được thể hiện trong các quy phạm điều chỉnh trách nhiệm dân sự theo hợp đồng gửi giữ, ủy quyền và một số loại khác. Đặc điểm chung của pháp luật các nước Châu Âu lục địa là trao cho các bên của quan hệ nghĩa vụ quyền tự xác định cơ sở miễn trừ trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên theo nguyên tắc thì thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm dân sự của các bên do lỗi cố ý được coi là không có hiệu lực. Ví dụ: Mục 276 BLDS Đức. Trong mọi trường hợp khi người vi phạm muốn được miễn trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ thì họ phải chứng minh rằng mình không có lỗi. Theo nguyên tắc, người vi phạm nghĩa vụ đạt được mục đích này chỉ trong trường hợp nếu họ chứng minh đ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top