Download Tiểu luận Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng vùng đồng bằng sông Cửu Long miễn phí





Với 08 trường Đại học (Trường Đại học Cần Thơ, Đại học An Giang, Đại học Đồng Tháp, Đại học Tiền Giang, Đại học Cửu Long, Đại học Trà Vinh, Đại học Long An, Đại học Bạc Liêu) và nhiều trường Cao đẳng (Cao đẳng Xây dựng miền Tây, Trường Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long, Trường Cao đẳng Cộng đồng Trà Vinh ), những năm qua, chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng4, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của vùng. Tuy nhiên thực tế cho thấy, thời gian qua hiệu quả của công tác giáo dục đào tạo, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường Đại học, Cao đẳng vùng đồng bằng sông Cửu Long còn thấp, tỷ lệ sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học và đạt các giải thưởng của các cấp còn ít, thậm chí có nhiều trường, qua các cuộc thi NCKH của Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa đạt được một giải thưởng nào, đặc biệt có trường từ khi thành lập đến nay chưa từng tổ chức một cuộc thi NCKH trong sinh viên nhà trường Ví dụ như năm 2008, tham gia cuộc thi Sinh viên NCKH do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, toàn vùng chỉ đạt 05 giải thưởng (Đại học Cần Thơ: 2 giải5; Đại học Sư phạm Đồng Tháp: 3 giải4) và sự phân bố giải thưởng không đều, thường tập trung ở một số trường Đại học lớn, trong khi đó chỉ tính riêng trường Đại học An ninh nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã là 5 giải thưởng, Trường Đại học Quy Nhơn là 9 giải, Trường Đại học Tây Nguyên là 6 giải



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Bài tham gia Hội thảo khoa học:
“Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL thời kỳ hội nhập”
----------*----------
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GÓP PHẦN ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tác giả: Đặng Danh Lợi* Tiến sỹ, Giảng viên chính, Khoa Mác-Lênin, Trường Đại học An ninh Nhân dân, TP. Hồ Chí Minh
Lê Hoàng Việt Lâm** Giảng viên, Khoa Mác-Lênin, Trường Đại học An ninh Nhân dân, TP. Hồ Chí Minh
1. Về thuật ngữ “nguồn nhân lực chất lượng cao”
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực hoàn toàn không phải là một vấn đề mới mẻ trong chiến lược, chính sách của mọi quốc gia. Đã từ rất lâu không chỉ ở các nước phát triển, mà cả ở nhiều nước đang phát triển, người ta không chỉ nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực, mà còn hiện thực hóa thành công các chiến lược, chính sách trên lĩnh vực này phụ vụ cho các mục tiêu nhiều mặt của quốc gia mình. Ở Châu Á, không chỉ Nhật Bản, mà những nước như Singapore, Hàn Quốc…, từ lâu đã trở thành điển hình cho những thành công trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của đất nước thành vốn con người, cột trụ vững chắc đưa nước họ cất cánh bay lên, gia nhập hàng ngũ các nước phát triển.
Đối với Việt Nam, ngay từ thời phong kiến đã có không ít vị minh quân biết coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”… Trong thời đại quốc tế hóa, toàn cầu hóa ngày nay, Đảng và Nhà nước ta càng coi trọng hơn vấn đề đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, lấy đó làm “quốc sách hàng đầu” trong chiến lược quốc gia. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng đã chỉ rõ: Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã định hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: “Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại”. Tiếp tục thực hiện đường lối đúng đắn và khoa học đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từ nay đến năm 2010 là “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức”1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.187.
.
Vậy thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao? Những tiêu chí đánh giá nó là gì?
Tùy vào cách tiếp cận, có thể có những cách định nghĩa sau về nguồn nhân lực chất lượng cao:
Định nghĩa nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên hiệu quả, năng suất của người lao động: Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc; từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của đơn vị nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Định nghĩa nguồn nhân lực chất lượng cao nêu trên thiên về mặt định tính, giúp ta có thể trả lời một cách lý thuyết: nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những người lao động có khả năng như thế nào trong lực lượng lao động. Tuy vậy, trong bối cảnh thực tế ở Việt Nam hiện nay, khi những tiêu chí đánh giá khả năng của người lao động chưa được lượng hóa thì dựa vào định nghĩa này, chúng ta sẽ rất khó khăn trong việc thống kê bộ phận lao động chất lượng cao.
Định nghĩa nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên trình độ được đào tạo của nguồn nhân lực: nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những người lao động qua đào tạo, đó là những người lao động được đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất (hệ thống giáo dục nghề nghiệp đào tạo lao động kỹ thuật và hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học, sau đại học, đào tạo lao động chuyên môn) được cấp bằng, chứng chỉ của các bậc đào tạo. Bộ phận lao động này được gọi chung là lao động chuyên môn kỹ thuật.
Tuy nhiên, nhìn vào định nghĩa trên chúng ta thấy rằng còn bộc lộ hai nhược điểm:
Thứ nhất, nếu dựa vào định nghĩa này, những lao động không qua đào tạo chính quy nhưng có trình độ tay nghề rất cao, thậm chí họ còn làm được những công việc mà ít người có thể làm được (ví dụ như các nghệ nhân) lại không được coi là nhân lực chất lượng cao. Trong thực tế, lực lượng này có sự đóng góp rất quan trọng và không thể thay thế trong thị trường lao động chất lượng cao.
Thứ hai, cũng dựa vào định nghĩa trên, bất kỳ lao động nào qua đào tạo cũng được coi là nhân lực chất lượng cao. Trên thực tế, có những lao động qua đào tạo, nhưng không đáp ứng được yêu cầu của công việc tương ứng với trình độ đào tạo, vì vậy không thể coi bộ phận lao động đó là nhân lực chất lượng cao.
Những phân tích về hạn chế của hai định nghĩa nêu trên đã cho thấy cần đưa ra một định nghĩa chính xác, khoa học, vừa mang tính định tính, vừa mang tính định lượng về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo chúng tôi, nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những lao động qua đào tạo, được cấp bằng, chứng chỉ của các bậc đào tạo và có khả năng đáp ứng nhữg yêu cầu phức tạp của công việc tương ứng với trình độ được đào tạo (trừ một số trường hợp đặc biệt không qua đào tạo); từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Định nghĩa trên là một cách trả lời tương đối phù hợp cho những câu hỏi đã nêu về nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên để làm rõ hơn khái niệm “nguồn nhân lực chất lượng cao”, cũng như để dễ dàng hơn trong việc thống kê, phân tích và đánh giá lực lượng lao động này, cần thiết phải xây dựng những tiêu chí xác định ngưồn nhân lực chất lượng cao ở mức độ cụ thể hơn. Có thể bước đầu nêu ra các tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao như sau:
Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có đạo đức nghề nghiệp, đó là lòng yêu nghề, say mê với công việc, có tính kỷ luật và có trách nhiệm với công việc. Cao hơn cả, đạo đức nghề nghiệp còn thể hiện ở mong muốn đóng góp tài năng, công sức của mình vào sự phát triển chung của dân tộc. Đây được coi là tiêu ch
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top