Download Tiểu luận Tìm hiểu đặc điểm phát triển ngôn ngữ của một trẻ khiếm thính miễn phí





Khi được 5 tuổi, N không tương tác với bạn bè, làng xóm. Gia đình cho N đi học mẫu giáo nhưng N khóc, theo về và suốt ngày chỉ xem tivi. Mọi người thường thử khả năng nghe của N thông qua phản ứng của N bằng việc tắt tiếng Tivi đi nhưng N vẫn xem bình thường không có phản ứng khó chịu nào. Gia đình thường để ý thái độ xem tivi của N, có phản ứng với các tình huống trong phim. Ví dụ cười lớn tiếng trong những tình huống hài hước, nhăn mặt lại trong những tình huống khó hiểu giống như một đứa trẻ bình thường có khả năng nghe và hiểu. N thường ngồi gần sát chỗ Tivi và chăm chú theo dõi, gia đình có cảm giác như N không bao giờ để ý đến những gì diễn ra xung quanh khi N xem tivi Vì những đặc điểm trên mà gia đình đặt ra nhiều trường hợp về tật của N: bị câm, hay lười nói, không có khả năng nói? Trong quá trình dạy N làm việc, gia đình chủ ý dạy N nói về những đồ vật trong nhà nhưng tất cả những âm N phát ra đều na ná giống nhau, không rõ, không phân biệt được âm nào. Ví dụ: cái ca, na, cá, N đều phát âm là “a”. Giai đoạn này gia đình có thể giao tiếp với N dễ hơn do N có vốn cử chỉ điệu bộ với gia đình và những từ ngữ đơn giản liên qua đến cuộc sống hàng ngày. N có thể kể lại những câu chuyện ngắn xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày cho các thành viên trong gia đình. Ví dụ: mách tội em trai của N đã làm những việc không được làm: bắt gà con chơi, nhổ xu hào ăn sống, đi chơi với các bạn ngoài biển



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

uyễn Văn Nhật, sinh năm 1994 (18 tuổi), quê ở Thanh Hóa. Nhật có 5 anh chị em và Nhật là con thứ 3 trong gia đình. Trong ba tháng đầu khi mang thai mẹ đã dùng thuốc kháng sinh. Trong thời gian mang thai mẹ rất yếu, không cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho bé. Khi sinh ra Nhật rất yếu, những ngày đầu không bú, khi được ba tháng bị sốt lạnh tím người, cứng miệng phải đưa đi cấp cứu. Khi được 3 tháng, Nhật bị lộn đập đầu từ trên vai chị xuống đất, bị sưng tấy và sốt nên phải tiêm thuốc. Nhật rất hiền, chỉ ăn ngủ không bao giờ quấy khóc, gia đình chỉ khen bé ngoan mà cũng không một chút nghi ngờ gì về sự phát triển của Nhật. Đến 2 tuổi Nhật không nói được gia đình nghĩ là Nhật chậm nói. Khi 4 tuổi gia đình biết Nhật bị câm nhưng do không nhận thức được cần làm những gì cho Nhật, và gia đình nghĩ người điếc thì không nghe được nên không có khả năng học tập. Nhật lớn lên theo năm tháng cho đến năm 10 tuổi mới được đi kiểm tra thính lực và bác sỹ kết luận là bị điếc sâu. Nhật bắt đầu đi học lớp chuyên biệt trường dạy nghề Hoa Sữa – Hà Nội. Năm nay 18 tuổi, Nhật học lớp 3 trường Vi Nhân – Buôn Mê Thuật.
2.4. Sự phát triển ngôn ngữ
2.4.1. Giai đoạn 0-3 tuổi
tui cùng với gia đình nhớ lại sự phát triển ngôn ngữ của N trong giai đoạn từ 0-3 tuổi ( trước tuổi mẫu giáo).
Giống như trẻ bình thường, khi mới sinh, N thể hiện các nhu cầu của mình bằng tiếng khóc. N phát ra những tiếng kêu, những âm phản xạ, máy môi và bập bẹ. N cung tỏ ra thích nói chuyện và hiểu cuộc nói chuyện giữa người lớn với trẻ bằng cách phát ra những âm thanh ơ, a, đơn giản, tiếng cười để đáp lại tiếng của người lớn. N nhìn chăm chú vào mẹ khi mẹ kể chuyện, nói nựng. Mẹ thường xuyên chơi, trò chuyện với Nhật, dung đồ chơi để trêu chọc làm trò cười cho N. N có thể đạp chân tay và hét lên những tiếng cười rất lớn thể hiện sự thích thú. Tuy nhiên ở giai đoạn này gia đình không chú ý đến khả năng phản ứng với âm thanh của N nên không phát hiện ra điểm khác biệt của N với trẻ bình thường. Khi chơi với đồ vật, N biết cầm nắm đồ vật đưa lên trước mặt tự chơi và phát ra âm thanh ơ…ơ…ư…ư…hay a…a…Khi được 5-6 tháng tuổi, N không phát ra âm ba… ba hay ma… ma như đứa trẻ khác. Có chú ý nhìn miệng người nói một cách chăm chú nhưng không có dấu hiệu bắt chước các âm thanh, N chỉ cười hét lên vui sướng khi được người lớn trò chuyện.
Nhưng vậy giai đoạn đầu gia đình rất khó phân biệt trẻ điếc hay không bởi sự khác nhau không rõ rệt và gia đình cũng không biết được sự khác biệt về sự phát triển của trẻ nếu không kiểm tra những phản ứng của trẻ với âm thanh.
Khoảng từ 6-8 tháng tuổi, ở trẻ em bình thường xuất hiện các âm bập bẹ, bắt đầu biết giao tiếp ngôn ngữ. Ví dụ khi được hỏi về ai đó trẻ thường quay đầu về phía người đó và cười. Trẻ hiểu được những câu hỏi đơn giản gồm hai từ về những gì gắn bó với trẻ. Biết ngoái đầu về hướng phát ra âm thanh nhận biết vật phát ra âm thanh. Đây là giai đoạn bắt đầu phát triển ngôn ngữ thụ động. Người lớn nhắc đi nhắc lại nhiều lần cùng một từ và từ đó gắn với một vật xác định, trong ý thức hình thành mối liên tưởng giữa từ phát ra với đối tượng tương ứng và bắt chước tiếng nói. Nhưng N vẫn chưa có khả năng học ngôn ngữ, gia đình dạy N phát âm thừ “bố”, “mẹ” nhưng N không có phản ứng bắt chước, khi được hỏi “mẹ đâu” N cũng không có phản ứng nhìn về phía mẹ nhưng N nhìn miệng người nói cách chăm chú trong giây lát rồi tiếp tục chơi. Khi dùng đồ vật cho phát ra âm thanh từ phía sau để trêu N nhưng N không có phản ứng quay lại. Nhưng gia đình cũng không nghĩ gì đến trường hợp N bị điếc.
Từ tháng thứ 9, N đã biết phối hợp giữa tiếng a..a, ơ…ơ…(Thay cho tiếng bibi..bô…bô..) với các cử chỉ phi ngôn ngữ (với tay về phía mẹ gây chú ý cho mẹ trước khi chỉ vào vật nào đó, giang tay đòi bế…). Cùng với tiếng bập bẹ, N đã có khả năng hiểu lời nói của người lớn khi người lớn kết hợp giọng nói với cử chỉ điệu bộ, thông qua thái độ trên nét mặt và hoàn cảnh cụ thể ở hiện tại. Ví dụ khi gia đình gọi: “Nhật!” với giọng điệu nặng nề như giận dữ, khuôn mặt, lông mày cau lại thì trẻ tỏ ra sợ hãi và mếu khóc. Nhưng vẫn gọi với ngữ điệu nhẹ nhàng, thái độ tươi tỉnh thì đứa trẻ nhoẻn miệng cười và đưa tay ra về phía tay người gọi. Vì vậy, khi bị quát mắng trẻ khiếm thính vẫn có những phản ứng như trẻ bình thường như: khóc, sợ hãi…. Khi N đang chơi, mọi người quát to nhưng N không phản ứng và khi lại gần chạm vào N quát “Nhật” và nghiêm nét mặt và quát lên thì N sẽ ngừng chơi và mếu khóc nhìn vào khuôn mặt người đang quát như theo dõi sự thay độ thái độ của người nói. Trước biểu hiện đó của N gia đinh cũng không nghĩ gì về sự khác thường về sự phản ứng của N với âm thanh. N không hứng thú, không thực hiện khi được mọi người dạy nói các từ quen thuộc như: nước (khi N uống), cơm (khi N ăn), bế (khi N đưa tay đòi bế). Như vậy N cũng hiểu được cử chỉ phi ngôn ngữ qua nét mặt: quát mắng, yêu thương, vui thích, sự không bằng long của người lớn.
Sự khác biệt giữa N với các bạn cùng tuổi được thấy rõ ở độ tuổi sau một năm. Giai đoạn này, trẻ bình thường bắt đầu phát triển ngôn ngữ chủ động. Trẻ càng lớn thì nhu cầu giao tiếp càng cao, trẻ luôn muốn nhận biết thế giới xung quanh nên trẻ thường hay hỏi, học nói và nhận thức thế giới qua ngôn ngữ nói, qua thính giác. Trẻ khiếm thính do không nghe được, không tự bắt chước được tiếng nói, không phân biệt được các âm thanh nên sự phát triển ngôn ngữ hoàn toàn khác. Do nhu cầu giao tiếp và học hỏi mà trẻ tìm cách để có thể giao tiếp với người khác, miêu tả hay mô phỏng những điều trẻ muốn nói cho người khác hiểu đó là cử chỉ điệu bộ. Nhưng khi được 1 tuổi N không biết thể hiện nhu cầu khi trẻ khát, đói, đau. Khoảng 2-3 tuổi, N giao tiếp với mọi người trong gia đình bằng cử chỉ điệu bộ để thể hiện nhu cầu. Ví dụ khi muốn uống nước N chỉ tay, kéo người lớn lấy giùm, và giao tiếp của N cũng chỉ dừng lại ở nhu cầu cơ bản có liên quan đến nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Mọi người trong gia đình vẫn tích cực dạy nói cho N. N thường chơi một mình với đồ chơi, khi nào muốn điều gì N phát ra tiếng ơ…ơ…để bào hiệu cho người lớn rồi ra hiệu bằng cách chỉ vào đồ vật mà N cần.
Khi càng lớn khoảng cách giữa trẻ điếc và trẻ nghe rõ càng lớn. Khi N được ba tuổi gia đình vẫn chỉ nghĩ N chậm nói vì N có thể phát âm được một số từ như: bố, mẹ, ông, bà, chị…nói được tên các thành viên trong gia đình, nói được câu 2 tiếng như: ăn cơm, đi học, mẹ Ngọ, Bố Hoàn…Tuy nhiên tất cả những âm N phát ra đều ngọng và khuyết phụ âm đầu. Khi được bố mẹ dạy nói, N có thể phát âm theo đối với những âm đơn giản. Những âm khó N không thể phát âm được, ví dụ quét nhà, tắm biển, con gà, con lợn, con chó. Gia đình thường dạy N nói trong sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy những từ N có thể ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top