lovebus_vn

New Member

Download Tiểu luận Phân tích điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh miễn phí





Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị vào lúc mà chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc, đã xác lập được quyền thống trị của chúng trên toàn thế giới. Chúng tiến hành xâm lược nhiều thuộc địa (10 đế quốc lớn Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan. dân số 320.000.000người, diện tích 11.407.000km2). Bên cạnh mâu thuẫn vốn có là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản, làm nảy sinh mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa các nước thuộc địc và các nước Chủ nghĩa đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi Chính vì thế mà cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX không còn là hành động riêng rẽ của nước này chống lại sự xâm lược và thống trị của nước khác như trước kia nữa mà đã trở thành cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

I. MỞ BÀI
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản quốc tế. Người đã có những cống hiến to lớn cho phong trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, cho sự đoàn kết các lực lượng dân chủ và hoà bình, cho sự thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân trên toàn thế giới. Người đã sáng tạo ra một hệ tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay. Tư tưởng HỒ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa lịch sứ mà còn có ý nghĩa thời đại, nó có giá trị to lớn trong thời đại hiện nay. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Muốn nghiên cứu được một cách sâu sắc và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh thì ta cần tìm hiểu rõ được điều kiện lịch sử - xã hội hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì thế mà em xin chọn: “Phân tích điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài cho bài tập lớn của mình.
Trong quá trình làm bài sẽ còn rất nhiều thiếu sót. Em rất mong thầy cô trong tổ bộ môn nhận xét và góp ý để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
II. THÂN BÀI
Trước khi đi vào phân tích điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì ta cần hiểu thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một “khái niệm” khoa học, định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh cần được trình bày một cách cô đọng, chặt chẽ, ở cấp độ lý luận nhằm phản ánh được bản chất và nội dung cốt lõi của nó. Do đó, có thể định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng, quan điểm cơ bản phản ánh sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thuộc địa, trên cơ sở kế thừa, vận dụng và phát triển chư nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hoá dân tộc, trí tuệ nhân loại, nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước truyền thống văn hoá, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hoá nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có tình hình xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, quê hương và gia đình và cuối cùng là thời đại.
1. Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
Suốt thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Nguyễn sau khi lật đổ triều đại Tây Sơn đã thi hành một chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động: tăng cường đàn áp, bóc lột ở bên trong và thực hiện bế quan toả cảng đối với bên ngoài, không cho Việt Nam có cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Vì thế đã không phát huy được thế mạnh của dân tộc và đất nước và rồi cuối cùng rơi vào cảnh mất nước. Nói như vậy để ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng việc chúng ta mất nước không phải là một định mệnh lịch sử. Trong quá khứ chúng ta đã từng đánh đuổi rất nhiều kẻ thù hùng mạnh bằng lòng yêu nước, tri thức đánh giăc, giữ nước vốn có. Rơi vào cảnh mất nước này, trách nhiệm trước hết thuộc về bọn vua chúa nhà Nguyễn, vì chúng trong thì sợ dân ngoài thì bạc nhược trươcs kẻ thù, cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực,... ở Nam Bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng,... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Tuy các cuộc nổi dậy đều sục sôi lòng yêu nước, căm thù giặc, muốn giành lại độc lập cho dân tộc, song do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến nên đều thất bại.
Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hoá, tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản bắt đầu xuất hiện, ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách cảu Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục...do các sĩ phu phong kiến có tư tưởng duy tân truyền bá và dẫn dắt nhưng do bất cập trước lịch sử nên không tránh khỏi thất bại.
Những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Đây có thể coi là giai đoạn mà các phong trào yêu nước rơi vào tình trạng khó khăn nhất, bế tắc nhất. Tháng 12/1907 Trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa; 4/1908 cuộc biểu tình chống thuế ở miền Trung bị đàn áp mạnh mẽ; 1/1909 căn cứ Yên Thế bị đánh phá; vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát; phong trào Đông Du bị tan rã; Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi Nhật, các lãnh tụ của phong trào Duy Tân Trung Kỳ người bị lên máy chém, người bị đày ra Côn Đảo. Tình hình đó đã cho thấy phong trào cứu nước của nhâm dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi theo một con đường cách mạng mới. Trước bế tắc của Cách mạng Việt Nam, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của dân tộc.
2. Quê hương và gia đình
*Quê hương:
Nghệ Tĩnh – quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Đặng Dung, Nguyễn Biểu, các lãnh tụ yêu nước cận đại như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...và biết bao con người ưu tú khác của dân tộc Việt Nam.
Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống cùng kiệt khổ, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Những tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam Triều đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường cách mạng mới để cứu dân, cứu nước.
Quê hương Nghệ Tĩnh là một vùng tập trung nhiều di tích lịch sử cứu nước. Sinh ra, lớn lên ở đây thì sẽ có một điều kiện để sớm nung nấu lòng yêu nước, chống ngoại xâm. Đúng thật là đất anh hùng, dân anh hùng sinh người anh hùng.
*Gia đình:
Những dấu ấn gia đình trong tâm hồn người thiếu niên, nếu về sau có bị phủ lấp bởi bụi bặm thời gian đi nữa thì nó vẫn trường tồn như một lớp trầm tích của quả đất. Trong trường hợp của cụ Hồ Chí Minh thì: gia đình cần cù, gương mẫu, quê hương trí tuệ, anh hùng là tảng đá...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top