cuongquyt

New Member

Download Tiểu luận Về vấn đề mưu cầu hạnh phúc cá nhân và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta hiện nay miễn phí





Chính C.Mác, trong lúc còn rất trẻ, đã tiếp cận được chân lý đó khi nói rằng, nếu ta chọn một nghề mà phục vụ được nhiều cho xã hội thì nỗi khó nhọc, vất vả trong công việc sẽ vì thế mà vơi đi. Anbe Anhxtanh (Albert Einstein), nhà khoa học vĩ đại của thế kỷ XX, cũng khẳng định mục đích cuộc sống của mỗi chúng ta là vì người khác, "trước hết vì những người mà hạnh phúc của riêng ta phụ thuộc hoàn toàn vào nụ cười và sự yên ấm của họ, kế đến là vì bao người không quen mà số phận của họ nối với ta bằng sợi dây của lòng cảm thông". Điều này giải thích tại sao những nhà họat động chính trị lấy việc phấn đấu cho lợi ích của dân tộc, nhân loại làm niềm hạnh phúc của mình, những nhà khoa học hy sinh cả cuộc đời vì sự nghiệp khoa học phục vụ nhân loại, những người dân bình thường khác trong xã hội không ngần ngại trích một phần thu nhập của mình để làm công việc từ thiện.
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Về vấn đề mưu cầu hạnh phúc cá nhân và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta hiện nay
Hạnh phúc và mưu cầu hạnh phúc cá nhân là vấn đề luôn được quan tâm trong lịch sử triết học. Bài viết điểm qua các quan niệm trong lịch sử triết học - cả phương Đông và phương Tây - về vấn đề quan trọng này. Từ đó, bài viết nêu lên quan điểm của chủ nghĩa Mác: phản đối những quan điểm hạnh phúc mang tính ảo tưởng, cực đoan, hạnh phúc cá nhân không thể tách rời hạnh phúc cộng đồng, quan niệm về hạnh phúc phải được xem xét từ phương diện toàn diện và lịch sử cụ thể, vấn đề hạnh phúc liên quan chặt chẽ đến sự xác định và thực hiện lý tưởng sông của mỗi cá nhân… Thông qua cách nhìn mácxít về hạnh phúc, bài viết xác định một vài vấn đề đang đặt ra trong xã hội ta hiện nay. Trong cuộc sống của mỗi người, ai cũng hướng tới mục đích mưu cầu hạnh phúc. "Quyền được mưu cầu hạnh phúc" là một trong những quyền con người đã được nêu lên trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Độc lập của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1945. Đây không chỉ là vấn đề chính trị và đạo đức, mà còn là một vấn đề triết học, nó đã được đặt ra từ thời cổ đại và được tranh luận trong suốt lịch sử phát triển của triết học. Tìm hiểu cuộc tranh luận đó là việc làm cần thiết để có được những quan niệm đúng đắn về vấn đề này, bởi lẽ đây là vấn đề có ý nghĩa lớn trong việc xác định lẽ sống cho mỗi người, nhất là đối với việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ở Ấn Độ cổ đại, chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo đòi hỏi cá nhân người tu hành phải hy sinh những ham muốn, dục vọng đời thường, dấn thân vào việc tu luyện khắc khổ để mong được giải thoát khỏi kiếp đời đau khổ nơi trần gian. Nó xuất phát từ triết lý trong Kinh Vêđa rằng, mọi đau khổ của con người đều xuất phát từ những ham muốn dục vọng cá nhân, chúng làm cho linh hồn cá thể (atman) mãi mãi gắn bó với thể xác trong một vòng luân hồi bất tận, là cái nghiệp gây ra hậu quả đau khổ ở kiếp sau. Nó có nhiều biểu hiện đa dạng, từ việc hạn chế ăn uống cho đến việc từ bỏ quan hệ tính dục. Ngoài ra, chủ nghĩa này còn có những biểu hiện cực đoan khác như suốt đời chỉ sử dụng một tay hay một chân, không dùng vải che thân… Tất cả những việc làm đó đều chỉ nhằm một mục đích duy nhất là mưu cầu sự bất tử và hạnh phúc vĩnh cửu cho linh hồn cá nhân người tu hành. Mục đích này có lẽ là điều hấp dẫn nhất của tất cả mọi tôn giáo trong lịch sử. Tuy nhiên, suy cho cùng, đây chỉ là điều mong ước chủ quan của con người, trái với quy luật khách quan và tính khả thi của nó không có gì chứng thực được. Nhà thiên văn học Mỹ nổi tiếng Carl Sagan đã có câu nói chí lý: "Thà rằng sự thật nghiệt ngã còn hơn điều tưởng tượng để an ủi". Đối lập với chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, phái Charvaka (còn gọi là Lokayata) - một trào lưu triết học duy vật vô thần ở Ấn Độ cổ đại - lại bác bỏ ảo tưởng ở kiếp sau, phản đối phương pháp tu luyện khổ hạnh. Họ khẳng định: quan niệm cho rằng những khoái lạc gắn với những sự vật cảm tính là không tránh khỏi đi liền với những đau khổ là những lý lẽ ngu ngốc. Nó cũng giống như bảo rằng chúng ta hãy ném bỏ những hạt thóc đi vì chúng gắn liền với cái vỏ trấu và bụi đất, không có thiên đường, không có sự giải thoát, không có linh hồn ở thế giới khác, không có nghiệp báo, không ai có thể thoát khỏi cái chết. Khi đã có cuộc sống thì bạn hãy sống một cách vui vẻ. Quan điểm này, về cơ bản là đúng, nhưng còn mang tính chất thô thiển nên bị các khuynh hướng tôn giáo chống đối mãnh liệt và bị coi là một thứ chủ nghĩa khoái lạc. Ở Trung Hoa, Việt Nam và một số nước khác, trong suốt thời kỳ phong kiến, tuy không biết đến biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa khổ hạnh hay chủ nghĩa khoái lạc, nhưng lối sống của xã hội cũng chịu ảnh hưởng của hai khuynh hướng đối lập nhau. Trước hết là khuynh hướng nhập thế của Nho gia, chủ trương người trí thức phải học hành đến nơi đến chốn và đem tài năng của mình ra giúp đời, giúp nước. Hạnh phúc lớn nhất của người quân tử là được công hiến cho xã hội, lập được công danh. Khổng Tử đã từng phân biệt quan niệm về hạnh phúc của người quân tử với quan niệm của kẻ tiểu nhân. ông nói: "Quân tử nghĩ đến đức, tiểu nhân nghĩ đến chỗ ở, quân tử quan tâm đến phép tắc, tiểu nhân quan tâm đến ân huệ". Ngược lại, những người theo phái Đạo gia (do Lão Tử sáng lập, Trang Tử phát triển) đã coi hạnh phúc cá nhân là ở cuộc sống vô vi, nhàn hạ, hòa hợp với tự nhiên. Sống hạnh phúc là sống thanh đạm, biết đủ, biết dừng, không tham lam, không bon chen, không cạnh tranh. Lối sống này cũng trở thành lối sống của nhiều người trí thức khi chưa gặp thời hay khi đã hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội. Hai quan niệm về hạnh phúc của Nho gia và Đạo gia, tuy đối lập nhau về cơ bản, nhưng cũng có những khía cạnh tương đồng, như coi khinh và phản đối lối sống chạy theo lợi ích vật chất tầm thường, ích kỷ của cá nhân, gắn hạnh phúc với đạo đức, phản đối việc mưu cầu hạnh phúc bằng con đường bất chính... nên cả hai quan niệm đều được những người trí thức phương Đông, trong đó có những người trí thức Việt Nam, vận dụng trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Trong triết học phương Tây, từ thời cổ Hy Lạp, cũng đã có cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa khổ hạnh, nhưng dưới những hình thức khác. Chủ nghĩa khổ hạnh Hy Lạp tuy không mang màu sắc tôn giáo, nhưng lại gắn liền với triết lý phủ nhận mọi giá trị của văn hóa, văn minh, coi văn hóa, văn minh là nguồn gốc của đau khổ, kêu gọi con người quay trở về với cuộc sống mông muội. Đó là lối sống của phái Xinich (Cynics) do Antixten (Antisthenes, khoảng 445 - 365 TCN), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập và được Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope, khoảng 404 - 323 TCN.) phát triển. Phái này chủ trương thực hiện lối sống đạo đức bằng việc coi khinh và từ bỏ tất cả những thành quả của văn minh, văn hóa, sống một cuộc sống lang thang, rách rưới, bẩn thỉu như súc vật. Bên cạnh phái Xinich còn có phái Xtôít (Stoicism), hay còn gọi là phái Khắc kỷ, do Dênôn ở Xiti (Zeno of Citium, khoảng 334 - 262 TCN), sáng lập, được nhà triết học Hy Lạp Epictetuyt (Epictetus, khoảng 55 - 135) và Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius ( 120 -180) phát triển. Phái Xtôít cho rằng, vũ trụ được điều khiển bằng lý trí (logos), bằng luật lệ tuyệt đối Người có lý trí là người hành động theo quy luật tự nhiên. "Hãy sống phù hợp với tự nhiên" là câu châm ngôn của phái Xtôít. Để đạt được hạnh phúc, phái Xtôít chủ trương sống có đạo đức có lý trí, dửng dưng trước tất cả mọi ham muốn vật chất. Bằng cách chế ngư được ham muốn và xúc cảm, những người Xtôít tin rằng có thể loại trừ được những tác động từ thế giới bên ngoài và tìm thấy sự yên bình bên trong tâm hồn. Đối lập với các kh...
 
Top