thang_ngo_2002

New Member
Download Tiểu luận Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam miễn phí


Phần mở đầu

I. Tính cấp thiết của đề tài:
Lý luận, hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý luận đó đã được thừa nhận Lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng nh tiến trình vận động lịch sử nối chung của xã hội loài người
Song, ngày nay. Đứng trước sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, lý luận đó đang được phê phán từ nhiều phía. Sự phê phán đó không phải từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn cả một số người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng lý luận, hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn nh lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy làm rõ thực chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học và tính thời đại của nó đang là một đòi hỏi cấp thiết .
Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau phải tập chung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội , việc vận dụng lý luận đóvào điều kiện Việt Nam; vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một nước giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.
Chính vì những lý do trên việc nghiên cứu đề tài: Vận dông lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam"
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
a. Mục đích: Góp phần tìm hiểu giá trị khoa học của lý luận, hình thái kinh tế - xã hội và việc vận dụng nó vào điều kiện nước ta hiện nay.
b. Nhiệm vụ: nêu rõ thực chất của lý luận hình thái kinh tế - xã hội và chứng minh lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị.
Vận dông lý luận hình thái kinh tế - xã hội, chứng minh công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Phân tích thực tiễn xây dựng đất nước trong thời gian qua và qua các giải pháp đưa công cuộc xây dựng đất nước đến thành công.
III. Phạm vi nghiên cứu:
Chứng minh giá trị khoa học và tính thời đạicủa lý luận hình thái kinh tế - xã hội.

Phần Nội Dung
Chương I : Nội Dung Của Lý Luận Hình Thái
Kinh Tế - xã hội

1 -Quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Trước khi có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy tâm đã giữ vị trí thống trị trong việc giải thích lịch sử. Không những các nhà triết học duy tâm mà ngay cả những nhà tư tưởng tiên tiến trước Mác cũng đứng trên lập trường duy tâm để giải thích các hiện tượng lịch sử xã hội.
Người ta xuất phát từ một sự thật là trong giới tự nhiên, thì lực lượng tự nhiên hoạt động tự động, không có ý thức; còn trong xã hội, nhân tế hoạt động là con người có lý tính, có ý thức và ý trí. Căn cứ vào sự thật Êy người ta đi đến kết luận sai lầm rằng: Trong giới tự nhiên, thì tính quy luật, tính tất nhiên thống trị. Sự thay đổi của ngày đêm, sự thay đổi của bốn mùa, sự biến hóa của khí hậu và những hiện tượng không phụ thuộc vào ý và chí và ý thức của người ta, còn những sự kiện lịch sử thì do hoạt động tự giác và ý chí của người ta, trước hết là của những nhân vật lịch sử, những lãnh tụ, anh hùng quyết định ; ý chí của người ta có thể thay đổi tiến trình lịch sử.
Chính vì vậy, đáng lẽ phải lấy sự phát triển của các điều kiện vật chất của xã hội để giải thích lịch sự, động lực lịch sử, bản chất của con người; giải thích tự nhiên xã hội, quân điểm chính trị, chế độ chính trị... người ta lại đi từ ý thức con người, từ những tư tưởng lý luận về chính trị, về triết học, pháp luật... để giải thích toàn bộ lịch sử xã hội. Nguyên nhân giải thích của sự duy tâm về lịch sử chính là ở chỗ các nhà triết học trước kia đã coi ý thức xã hội để ra và quyết dịnh tồn tại xã hội.
Quan điểm này có những thiếu sót căn bản nh sau: Không vạch ra được bản chất của các hiện tượng xã hội, nguyên nhân vật chất của những hiện tường Êy.
Không tìm ra những quy luật phổ biến chi phối sự vận động và phát triển của xã hội.
Không thấy vai trò quyết định của quân chúng nhân dân trong lịch sử.
Khác với các nhà triết học trước đây, khi nghiên cứu xã hội, C.Mác đã lấy con người làm xuất phát điểm cho học thuyết của mình. Con người mà Mác nghiên cứu không phải con người trừu tượng, con người biệt lập, cố định mà là con người hiện thực đang sống và hoạt động, trước hết là hoạt động sản xuất, tái sản xuất ra đời sống hiện thực của mình. Đó là con người cụ thể, con người của tự nhiên và xã hội.
Bắt đầu từ việc nghiên cứu con người trong đời sỗng xã hội, ông nhận thấy “... con người cần ăn, uống, ở và mặc, trước khi có thể lo đến việc làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo...” (2)
Muốn vậy con người phải sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của chính mình. Sản xuất vật chất là một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là hành động lịch sử mà hiện nay còng nh hàng trăm năm trước đây người ta vẫn phải tiến hành từng ngày, từng giờ cốt để duy trì cuộc sống của con người. Tuy nhiên sản xuất của cải vật chất chí là yếu tố nền tảng của hoạt động sản xuất của con người. để tồn tại và phát triển con người không ngừng hoạt động để sản xuất, tái sản xuất ra: bản chất con người, các quan hệ xã hội và năng lực tinh thần, trí tuệ. Mác chỉ rõ, trên cơ sở vật chất sản xuất vật chất, trên cơ sở tồn tại xã hội, con người đã sản sinh ra ý thức nh đạo đức, tôn giáo, hệ tư tưởng cũng nh hình thái ý thức khác.
Mác và Ăng-ghen đã nghiên cứu bản chất, gốc rễ của vấn đề, đồng thời không hạ thấp vai trò của cá nhân trong lịch sử, không xem thường vai trò, tác dụng của ý thức, ý trí, động cơ thúc đẩy họ. Nhưng các ông cũng lưu ý rằng bản thân ý thức chúng không phải là nhưng nguyên nhân xuất phát, mà là những nguyên nhân phát sinh của quá trình lịch sử, bản thân chúng cuối cùng cũng cần được giải thích từ những điều kiện vật chất của đời sống.
Xã hội loài người là một hệ thống phức tạp về bản chất và cấu trúc. Việc nghiên cứu vạch ra những quy luật chung nhất của toàn bộ xã hội chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một hệ thống những phạm trù cho triết học duy vật về lịch sử vạch ra để giải thích xã hội: tình thái kinh tế-xã hội sản xuất vật chất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giai cấp và quan hệ giai cấp, dân tộc và quan hệ dân tộc, cách màng xã hội, nhà nước và pháp luật, hình thái ý thức xã hội,văn hoá, cá nhân và xã hội... Nh vậy, chủ nghĩa duy vật về lịch sử là lý luậnvà phương pháp dễ nhận thức xã hội. Nó vừa cung cấp trí thức, vừa cung cấp phương pháp hoạt động nhằm tìm kiếm tri thức mới cho các khoa học xã hội cụ thể. Nó giúp chúng ta xác định đúng vị trí của mỗi hiện tượng xã hội, xuất phát từ cách giải quyết đúng đắn vấn đề bản của triết học trong lĩnh vực xã hội, thấy được sự tác động biện chứng giữa tính quy luật và tính ngẫu nhiên trong lịch sử, giữa nhân tố khách quan nhân tố chủ quan, giữa hiện tượng kinh tế và hiện tượng chính trị... Nó đem lại quan hệ về sự thống nhất trong toàn bộ tính đa dạng phong phú của đời sống xã hội.
3.2.Thực tiễn về cách mạng việt nam.
Sau khi thống nhất đất nước, cả nước đã quá độ đi lên CNXH, đảng ta luôn vận dụng lý luận của chủ nghĩa M.Lênin trong đó có lý luận hình thái kinh tế xã hội vào việc đề ra các chủ trương phát triển đất nước, tuy nhiên do chủ quan duy ý trí còn có quan niệm Éu trí về CNXH và e sợ có ngay CNXH lên chúng ta mắc phải một số quyết điểm nghiêm trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Một là, từ chỗ khẳng định việt nam quá độ thẳng lên CNXH bá qua giai đoạn phát triển TBCN, chóng ta đã có một nhận thức hết sai làm là bỏ qua tất các những gì thuộc về CNTB, không tiếp thu những yếu tố hợp lý, tích cực của nó vào sự phát triển, vô hình chúng ta đã từ bỏ những thành tựu của nhân loại đạt được làm cho chóng ta không tận dụng được các khâu trung gian các bước quá độ cần thiết để vững chăc chế độ xã hội với trên cơ sở tiếp thu kế thừa có chọn lọc những tinh hoa do nhân loại đã tạo ra.
Hai là, nhận thức nhân gian về CNXH trong quá trình xây dựng CNXH, do chóng ta nhận thức chưa đầy đủ và hết sưc gian nan về CNXH, và do tư tưởng nôn nóng muốn có ngay CNXH trong thời gian gắn cho lên dẫn đến thưc hiện xây dựng CNXH chẳng những chúng ta không đạt được mục tiêu đề ra mà còn phá hoại nghiêm trọng sản xuất và làm nảy sinh nhiều tiêu cực về xã hội.
ở nước ta, bệnh chủ quan duy ý trí đã từng thể hiện ở chỗ đánh giá tình hình thiếu khách quan, say sưa với thắng lợi, không thấy hết khó khăn, phức tạp, vạch ra các mục tiêu khá cao, coi thường việc khuyến khích lợi Ých thực chất, cường điệu động lực tinh thần, muốn bỏ qua giai đoan tất yếu để tiến nhanh, không tôn trọng các quy luật khách quan.
Sự hình thành và phát triển của XH XHCN cũng như chủ nghĩa xã hội, là một quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo các quy luột khách quan. Vì vậy, lếu con người muốn thay đổi xã hội theo ý muốn chủ quan hay muốn dùng mệnh lệnh để xoá bỏ các giai đoạn phát triển tự nhiên của nó thì không tránh khỏi “sự trớ trêu”.
Đứng trước thực tế, khủng hoảng kinh tế xã hội nảy sinh và ngày trở nên trầm trọng, Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đổi mới đất nước đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Để thực hiện thắnglợi công cuộc CNXH ở nước ta, chóng ta phải nỗ lực hơn nữa trong việc nhận thức và sử dụng quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, trong đó về hình thái xã hội

phần III: Kết luận
Lý luận hình thành kinh tế xã hội là một trong những thành tựu khoa học mà C. Mác đã để lại cho nhân loại. Chính nhờ xuất phát từ con người hiện thực - con người đang sống hiện thực của mình, C. Mác đã vạch ra sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội. Xã hội là một hệ thống mà trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của Xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Các hình thành kinh tế xã hội thay thế nhau từ thấp đến cao thông qua cách mạng xã hội. Sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, vừa bị tác động bởi các điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia, từng dân tộc.
Mặc dù hiện nay, xã hội loài người có những đặc điểm khác với C.Mác, Lý luận hình thành kinh tế xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Nó là phương pháp luận thực sự khoa học để phân chia giai đoạn phát triển, xem xét mỗi quan hệ lẫn nhau giưa các mặt trong đời sống xã hội nh quy luật vận động, phát triển từ hình thái kinh tế xã hội. Lý luận đó không tham vọng giải thích được tất cả các mặt của đời sống xã hội là nó đòi hỏi bằng các phương pháp tiếp cận khoa học khác. Cùng với sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học, loài người ngày nay cũng tìm ra những phương pháp tiếp cận mới về xã hội, nhưng không phải vì thế mà lý luận hình thành kinh tế xã hội trở lên lỗi thời.
Cùng với việc khái quát lý luận hình thành kinh tế xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra các quy luật phát sinh phát triển và diệt vong của nó. Từ đó, các Ông đi đến đoán về sự ra đời của hình thành kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Lý luận đó cũng cung cấp cho chóng ta một phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích. Sự vận động phát triển đầy đủ mâu thuẫn hiện nay của nhân loại. Nó cho thấy: Măc dù chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu, những tất yếu của chủ nghĩa tư bản sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội cao hơn theo đoán của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là phương pháp luận khoa học để ta phân tích công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng được tất yếu của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của tình hình kh
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

lanphuong34

New Member

Download Tiểu luận Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam miễn phí





Trong lời tựa viết cho bản “tuyên ngôn của đảng cộng sản” Mác và Anghen nhấn mạnh:
“Bây giờ thử hỏi công xã nông thôn Nga, các hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ công hữu ruộng đât nguyên thuỷ, có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất hay không, hay là trước hết, nó phải trải qua quá trình tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử của phương tây.
Ngày nay, lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này : Nếu cách mạng Nga báo hiệu cuộc cách mạng vô sản ở phương tây và néu 2 cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất của Nga hiện nay sẽ có thể khởi điểm của sự phát truyển cộng sản chủ nghĩa. Trong tác phẩm “bàn về xã hội ở Nga” Ph Ăghen viết “Nhưng một điều kiện tất yếu để làm được việc đó là tấm gương và ủng hộ tích cực của phương tây cho tới nay vẫn còn là tư bản chủ nghiã. Chỉ khi nào kinh tế cơ đản chủ nghĩa bị đánh bại ở quê hương của nó và ở những nước phát đạt, chỉ khi nào những nước lạc hậu qua tấm gương ấy mà biết được rằng “Việc đó được tiến hành như thế nào”Những lực lượng sản xuất công ngiệp hiện đại với tư cách là sở hữu công cộng đã được sử dụng như thế nào để phục vụ toàn thể xã hội, thì những nước lạc hậu ấy mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn như vậy. Như thế thắng lợi của các nước ấy sẽ được đảm bảo”.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

c thực hiện trên cơ sở một hệ thống những phạm trù cho triết học duy vật về lịch sử vạch ra để giải thích xã hội: tình thái kinh tế-xã hội sản xuất vật chất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giai cấp và quan hệ giai cấp, dân tộc và quan hệ dân tộc, cách màng xã hội, nhà nước và pháp luật, hình thái ý thức xã hội,văn hoá, cá nhân và xã hội... Như vậy, chủ nghĩa duy vật về lịch sử là lý luậnvà phương pháp dễ nhận thức xã hội. Nó vừa cung cấp trí thức, vừa cung cấp phương pháp hoạt động nhằm tìm kiếm tri thức mới cho các khoa học xã hội cụ thể. Nó giúp chúng ta xác định đúng vị trí của mỗi hiện tượng xã hội, xuất phát từ cách giải quyết đúng đắn vấn đề bản của triết học trong lĩnh vực xã hội, thấy được sự tác động biện chứng giữa tính quy luật và tính ngẫu nhiên trong lịch sử, giữa nhân tố khách quan nhân tố chủ quan, giữa hiện tượng kinh tế và hiện tượng chính trị... Nó đem lại quan hệ về sự thống nhất trong toàn bộ tính đa dạng phong phú của đời sống xã hội.
Việc áp dụng triệt để chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc xem xét các hiện tượng xã hội, theo Lê Nin đã khắc phục được những khuyết điểm căn bản của các lý luận lịch sử trước đây. Cũng từ đây mọi hiện tượng xã hội, cũng như bản thân phát triển của xã hội loài người được nghiên cứu trên một cơ sở lý luận khoa học.
Thực chất của quan niệm duy vật lịch sử có thể tốm tắt như sau:
Tồn tại một xã hội quyết định ý thức xã hội, cách sản xuất vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Trong sản xuất con người có những quan hệ nhất định gọi là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất đã có. Từ chỗ là hình thức phát triển lực lượng sản xuất, các ấy lại kìm hãm sự phát triển của chúng khi đó sẽ xảy ra cách mạng xã hội thay thế xã hội này bằng một xã hội khác.
Toàn bộ quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội hay cơ sở hạ tầng trên đó xây dựng một kiến trúc thượng tầng khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi ít nhiều nhanh chóng.
Sự phát triển của xã hội là sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội thấp bằng hình thái kinh tế xã hội cao hơn.
Trong những kết luận trên cần nhấn mạnh thêm rằng ý thức xã hội, kiến trúc thượng tầng thuộc vào 7 xã hội, vào cơ sở hạ tầng song chúng có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại đối với tồn tại xã hội và cơ sở hạ tầng.
Trong quan niệm duy vật về lịch sử thì học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội có một vị trí đặc biệt.
Nó chỉ ra con đường phát triển có tính quy luật của xã hội loài người. Sự phát triển của xã hội loài người ; là sự thay thế những hình thái kinh tế xã hội cao hơn. Sự phát triển ấy không phải diễn ra một cách tuỳ tiện mà diễn ra theo các quy luật kháh quan, theo con đường lịch sử tự nhiên.
Các yếu tố cơ bản cấu thành một hình thái kinh tế xã hội.
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, cho lên xuất phát từ con người hiện thực, trước hết phải xuất pháttừ sản xuất để đi tới các mặt khác của xã hội, tìm ra các quy luật vận động phát triển khach quan của xã hội. Mác đã phát hiện ra trong sản xuất có hai mặt không thể tách rời nhau. Một mặt, là quan hệ giữa người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa người với người.
Quan hệ giữa người với tự nhiên đó là lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa người với tự nhiên. Trình độ của lực lượng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người.
Lực lượng sản xuất bao gồm:
- Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
* Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.
* Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động khác cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm...
* Đối tượng lao động bao gồm bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất. Thí dụ đất canh tác, nguồn nước... Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan tới việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất.
* Điều đó hoàn toàn có tính quy luật bởi những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người.
*Tư liệu lao động là vật hay là phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn chuyền tác động của con người với đối tượng lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất củat quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất mới.
* Trong tư liệu lao động công cụ lao động là hệ thống xương cốt, bắp thịt của sản xuất và là tiên chí quan trọng nhất, trong quan hệ xã hội với giới tự nhiên. Cùng với sự cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất của loài người cũng được phát triển và phong phú thêm, những nghành sản xuất mới xuất hiện, sự phân công lao động phát triển. Trình độ phát triển tư liệu sản xuất mà chủ yếu là công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế theo Mác.
“Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào”. Đối với mỗi thế hệ, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại, trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương lai. Nhưng những tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp với lao động sống. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được tác dụng không thể trở thành lực lựơng sản xuất của xã hội. Con người khônh chỉ đơn thuần chịu sự quy dịnh khách quan của điều kiện lịch sử mà nó còn là chủ thể tích cực tác dụng cải tạo điêù kiện sống.Họ không chỉ sử dụng những công cụ lao động hiện đại có mà còn sáng chế ra những công cụ lao động mới.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lưc lượng lao động sản xuất đồng thời xét cùng nó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới.
Mặt thứ hai của quá trình sản xuất là mối quan hệ giữa người với người gọi là quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho sản xuất kinh tế xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm nh
cho mình xin tài liệu này với ạ, mình cảm ơn
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D lý luận về sản xuất hàng hóa và vận dụng trong phát triển kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay Môn đại cương 0
D Công tác xã hội với người khuyết tật vận dụng quản lý ca Văn hóa, Xã hội 0
D Vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học lịch sử lớp 10 trường trung học phổ thông Luận văn Sư phạm 0
D Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của triết học duy vật biện chứng vào dạy học ôn tập hình học 10 Luận văn Sư phạm 0
D Lý thuyết của Keynes vai trò kinh tế của Nhà nước và sự vận dụng ở nước ta hiện nay Môn đại cương 0
D Vận dụng lý thuyết thông tin không đối xứng phân tích về những tác động của thông tin không đối xứng trong lĩnh vực tín dụng Luận văn Kinh tế 0
D Sáng kiến kinh nghiệm vận dụng phương pháp dự án vào dạy học địa lý 9 Luận văn Sư phạm 0
D Phân tích nội dung của phương pháp quản lý kinh tế trong hệ thống phương pháp quản lý Từ đó nêu lên ý nghĩa của nó trong việc vận dụng phương pháp Luận văn Kinh tế 0
D Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển của phép biện chứng duy vật và sự vận dụng hai nguyên lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam Môn đại cương 0
D Pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần vận tải và thương m Nông Lâm Thủy sản 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top