Download Tiểu luận Nguyên tắc thế giới quan trong nhận thức của triết học Mác, ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay miễn phí





Kế họach 5 năm 1981-1985 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu nhưng chủ yếu là trong nông nghiệp như: đã chặn được đà giảm sút và có bước phát triển (sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4,9%/năm so với 1,9%/năm của những năm 1976 – 1980). Khoa học kĩ thuật được triển khai, bắt đầu khai thác dầu mỏ và xây dựng nhiều công trình thủy điện như Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm so với 0,6%/năm trong những năm 1976 - 1980; thu nhập quốc dân tăng bình quân là 6,4%/năm so với 0,4%/năm giai đoạn 1976 - 1980. Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, ta hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

iên quyết đấu tranh chống những tiêu cực trong xã hội.
Nguyên tắc vận động
Vận động là một phạm trù của triết học Mác-Lê nin dùng để chỉ về một cách tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
Nguyên tắc vận động là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản. Cơ sở lý luận của nguyên tắc gắn liền với nguyên lý về sự phát triển của phép duy vật biện chứng. Vận động là tiến lên từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật chất" và "là cách tồn tại của vật chất" có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động (là cách của vật chất). Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, khi con người nhận thức được những hình thức vận động của vật chất, qua đó nhận thức được bản thân vật chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố hữu của vật chất).
Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì người ta đánh giá là tồn tại vĩnh cữu thì nay đã trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu.
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó là:
Vận động cơ học (là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
Vận động vật lý (tức sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện, v.v.).
Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất).
Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội).
Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động cơ học, trong vận động hóa học vì bao gồm vận động vật lý và trong vận động sinh học bao gồm vận động hóa học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng như tất cả các vật động nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. và trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Engels đã góp phần đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học.
Ngoài ra, quá trình vận động còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động đó là sự vận động trong trạng thái cân bằng, tức là những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời. Theo Engels thì "mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời"
Đứng im là tương đối, vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó còn là nó chưa bị phân hóa thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hóa tiếp theo. Đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Theo Engels thì "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt.
Nguyên tắc vận động yêu cầu khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
Qua đây nguyên tắc vận động đòi hỏi trong hoạt động thực tiến phải nhạy cảm với cái mới, phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới tạo điều kiện cho cái mới thay thế cái cũ, chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ..Sự vận động diễn ra tạo ra cái mới, thay thế cái cũ, chiến thắng cái cũ. Trong quá trình đó nhiều cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Trong quá trình thay thế cái cũ phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo những yếu tố tích cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Đây là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Theo nguyên tắc này, chúng ta phải xem xét sự hình thành, phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng diễn ra trong một quá trình thời gian và tại từng thời điểm với điều kiện, môi trường cụ thể. Trong quá trình vận động của các sự vật, hiện tượng biến chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác trong từng điều kiện hoàn cảnh, không gian, thời gian cụ thể.
Tính cụ thể thể hiện ở sự tồn tại các trạng thái, biểu hiện của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, hoàn cảnh tại một thời điểm cụ thể. Khi điều kiện, hoàn cảnh cho sự tồn tại của sự vật, hiện tượng thay đổi thì trạng thái, biểu hiện của sự vật, hiện tượng cũng thay đổi phù hợp. Ví dụ như nước ở nhiệt độ bình thường là dạng lỏng, nhưng xuống dưới 0oC là dạng đá – trạng thái rắn.
Tính lịch sử thể hiện ở sự biến chuyển không ngừng của sự vật, hiện tượng từ trạng thái, biểu h...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top