danhtcb

New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

1. Xuất phát điểm
Công cuộc cải cách và mở cửa nền kinh tế Trung Quốc đã được Hội nghị Trung ương 3 Khóa XI của Đảng cộng sản Trung Quốc (12/1978) quyết định. Riêng đối với chính sách kinh tế ở nông thôn thì : Do xuất phát từ một nước nông nghiệp, tuyệt đại bộ phận người lao động sống dựa vào nông nghiệp nên khâu đột phá quan trọng nhất trong cải cách kinh tế ở Trung quốc là cải cách kinh tế ở nông thôn. Ngay trong năm 1978, Trung quốc đã quyết định xoá bỏ chế độ phân phối bình quân ở nông thôn, thực hiện nguyên tắc "làm hết năng lực, phân phối theo lao động", tăng cường quản lý định mức, trả thù lao cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động.
Từ năm 1980, Trung quốc bắt đầu thí điểm khoán sản lượng đến hộ và khoán toàn bộ đến hộ gia đình nông dân. Tuy nhiên, chỉ đến năm 1982 thì các biện pháp này mới chính thức được thực hiện trên toàn quốc. Việc giải phóng năng lực sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân đã mang lại bước nhảy vọt trong kinh tế nông thôn Trung quốc với tỷ lệ tăng trưởng bình quân của giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 – 1985.
Cải cách nông thôn ở Trung Quốc về tư duy được chia ra làm 4 giai đoạn:
- Từ năm 1979 đến năm 1984 là thời kỳ thể hiện sự quay lại tôn trọng quy luật giá trị, mở rộng tác dụng của cơ chế thị trường. Các biện pháp cải cách áp dụng đầu tiên ở nông thôn đã khiến nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển, tạo ra sức thuyết phục để đông đảo người dân tiếp nhận cuộc cải cách theo hướng thị trường.
- Năm 1984, Hội nghị Trung ương 3 khoá XII xác nhận kinh tế XHCN là kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Nhận thức của mọi người đã được nâng lên, hiểu rõ hơn về vấn đề phát triển kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua.
- Năm 1987, Đại hội Đảng CSTQ lần thứ 13 đưa ra mô hình "nhà nước điều tiết thị trường, thị trường dẫn dắt xí nghiệp" đã làm nổi bật tác dụng của thị trường và có thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá XHCN sang thuyết kinh tế thị trường XHCN
- Đầu năm 1992, Đặng Tiểu Bình đã nêu ra ý kiến " Kinh tế kế hoạch không phải là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị trường không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường". ý kiến đó một lần nữa giải phóng tư tưởng cho cán bộ và nhân dân Trung Quốc.
-mĐại hội Đảng CSTQ lần thứ XIV lại đề ra "lấy xây dựng kinh tế thị trường XHCN làm mục tiêu của cải cách thể chế kinh tế", cuộc cải cách theo hướng thị trường hoá càng được thúc đẩy nhanh chóng. Thể chế kinh tế mới đã có vai trò ưu thế trong vận hành kinh tế.

2. Mô hình lựa chọn
- Thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu: tư hữu, sở hữu tập thể, công hữu, trong đó sở hữu công cộng là nền tảng.
- Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó Nhà nước giữ vai trò định hướng, điều hành nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng kế hoạch gián tiếp và các biện pháp điều chỉnh vĩ mô, giải tán công xã, thực hiện "khoán hộ gia đình" trong nông nghiệp.
- Hình thành và phát triển một cách đồng bộ các thị trường: thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường chứng khoán....
- Thực hiện phân phối theo lao động, đồng thời cho phép và khuyến khích phân phối lợi ích từ việc tham gia vốn, kỹ thuật và các yếu tố sản xuất khác. Cho phép và khuyến khích một bộ phận người, một số vùng giàu lên trước bằng con đường lao động chân chính và kinh doanh hợp pháp.
Điều này được thể hiện như sau: Tập thể lãnh đạo thứ nhất của ĐCS Trung Quốc do Mao Trạch Đông đứng đầu đã thực hiện chiến lược nông thôn bao vây thành thị, ở một mức độ nhất định, nông thôn và nông dân đã giúp ĐCS Trung Quốc giành được thắng lợi trong cách mạng và giành được chính quyền.
Nhưng sau khi thành lập nước CHND Trung Hoa, Trung Quốc đã thức hiện hàng loạt các chính sách phân tách giữa thành thị với nông thôn, dần hình thành nên cơ cấu nhị nguyên kéo dài cho đến tận ngày nay. Hơn nữa, một số chủ trương đường lối sai lầm trong việc quản lý kinh tế ở nông thôn của Mao Trạch Đông, như phát động “phong trào quần chúng”, nhấn mạnh tác dụng của quan hệ sản xuất, xem nhẹ tác dụng quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, chạy theo “nhất đại nhị công” (một là lớn, hai là công hữu), đã làm lãng phí các nguồn lực ở nông thôn: nông nghiệp không phát tnển, nông dân ở trong tình trạng “cùng nhau cùng kiệt khổ”.
Sau khi Trung Quốc thực hiện cải cách mở cửa, Đặng Tiểu Bình đã bắt đầu thực hiện cải cách mở cửa ở nông thôn, cởi trói cho nông thôn Trung Quốc bằng việc thực hiện chế độ khoán trách nhiệm đến hộ gia đình, điều này đồng nghĩa với việc xoá bỏ chế độ “nồi cơm to”, khơi dậy tính tích cực của người nông dân. Có thể nói rằng, đây là lần thứ nhất khơi dậy sức sống ở nông thôn Trung Quốc.
Nhưng tư duy phát triển của Đặng Tiểu Bình là phát triển nghiêng lệch, cho một bộ phận có điều kiện giàu lên trước, phát triển bằng mọi giá, chú trọng đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ các chỉ tiêu mang tính xã hội.
Tiếp đến tập thể lãnh đạo thế hệ thứ ba của ĐCS Trung Quốc do Giang Trạch Dân đứng đầu đã coi nông nghiệp là sự bảo đảm hậu cần cho phát triển kinh tế đưa ra con đường đô thị hoá nông thôn đặc sắc Trung Quốc bằng cách xây dựng các thị trấn, thị xã nhỏ ở nông thôn. Trong điều hành kinh tế, Giang Trạch Dân dựa theo tư duy phát triển nghiêng lệch của Đặng Tiểu Bình, chủ yếu khuyến khích khu vực ven biển miền Đông Trung Quốc phát triển. Như vậy, thế hệ lãnh đạo thứ ba do Giang Trạch Dân đứng đầu vẫn chưa có những đột phá trong xây dựng và phát triển xã hội ở nông thôn. Có thể là do Trung Quốc chưa đạt đến trình độ có thể lấy công nghiệp phục vụ nông nghiệp, lấy thành thị lôi kéo nông thôn phát triển.
Bắt đầu từ sau Đại hội ĐCS Trung Quốc lần thứ XVI (2002), Hồ Cẩm Đào thay mặt cho tập thể lãnh đạo thứ tư ĐCS Trung Quốc đã có bước đột phá trong cải cách phát triển nông thôn Trung Quốc. Hồ Cẩm Đào đã chú ý đến vấn đề xây dựng xã hội. Hồ Cẩm Đào đã bổ sung “lĩnh vực xã hội” vào cục diện tổng thể xây dựng hiện đại hoá XHCN của Trung Quốc từ tam vị nhất thể bao gồm “Phát triển kinh tế thị trường XHCN, chính trị dân chủ XHCN và văn hoá tiên tiến XHCN” sang tứ vị nhất thể “Thúc đẩy phát triển nhịp nhàng giữa xây dựng xã hội với xây dựng kinh tế, xây dựng chính trị và xây dựng văn hoá”.
Đồng thời Hồ Cẩm Đào đã đưa ra những chủ trương chính sách lớn giải quyết các vấn đề xã hội trong đó có xã hội ở nông thôn, như quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hoà XHCN. Tháng 10 năm 2008 Hội nghị Trung ương 3 khoá XVII ĐCS Trung Quốc đã tập trung bàn về một số vấn đề quan trọng thúc đẩy cải cách phát triển ở nông thôn. Với cách tiếp cận mới về chiến lược phát triển Hồ Cẩm Đào đã “tính toán tổng thể giữa thành thị và nông thôn”, tập trung nguồn lực đầu tư cho nông thôn, chứ không tách rời giữa thành thị và nông thôn như các thế hệ lãnh đạo trước. Thế hệ lãnh đạo do Hồ Cẩm Đào đứng đầu nhận định, tình hình phát triển của Trung Quốc đã ở vào giai đoạn lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, lấy thành thị lôi kéo nông thôn.
Quá trình thay đổi tư duy trên đây còn được thể hiện và minh chứng trong đường lối chủ trương của Đảng và Chính phủ Trung Quốc đối với việc thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển. Nhìn vào đường lối chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn của Đảng và Chính phủ Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay, mặc dù Trung Quốc cải cách mở cửa bắt đầu từ nông thôn, nhưng có thể nói rằng Trung Quốc đã bỏ rơi, thậm chí còn hy sinh cả nông thôn để phục vụ cho thành thị phát triển. Điều này thể hiện ở chỗ đầu những năm 1980, Đảng và Quốc vụ viện Trung Quốc đã đưa ra các văn kiện số 1 thúc đẩy nông thôn phát triển. Bắt đầu giải quyết vấn đề nông dân bằng việc cải cách thể chế kinh tế ở nông thôn, thực hiện chế độ khoán đến hộ từ năm 1982 (Văn kiện số 1 lần thứ nhất). Tiếp theo đó 4 năm liền (1983, 1984, 1985, 1986) Trung ương Đảng Cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc lần lượt đưa ra 4 văn kiện số 1, đều tập trung vào việc cải cách kinh tế nông thôn, nhấn mạnh chế độ khoán trách nhiệm đến hộ gia đình ở nông thôn Trung Quốc, trao lại quyền kinh doanh tư liệu sản xuất như đất canh tác cho nông dân, người nông dân có quyền tự chủ trong việc phân phối nông sản phẩm. Điều này đã phát huy được tính tích cực của người nông dân trong sản xuất. Thế nhưng trong khoảng thời gian gần 18 năm từ 1986 đến cuối 2003, Trung Quốc đã không đưa ra văn kiện số 1, mặc dù trong các văn kiện khác của Đảng và Chính phủ Trung Quốc có nói đến vấn đề tam nông, trong đó có vấn đề nông thôn, nhưng không tập trung và cụ thể như các văn kiện số 1 về giải quyết vấn đề tam nông.
Những năm gần đây, Đảng và Quốc vụ viện Trung Quốc lại bắt đầu chú trọng đến giải quyết các vấn đề đặt ra trong tam nông, trong đó có nông thôn. Đặc biệt là từ sau Đại hội lần thứ XVI (11/2002), ĐCS Trung Quốc đã đưa ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo phương châm tính toán tổng thể giữa thành thị và nông thôn, từ đầu 2004 - 2009, lãnh đạo ĐCS Trung Quốc đã liên tiếp đưa ra 6 văn kiện số 1 về giải quyết vấn đề tam nông. Nội dung chủ yếu của các văn kiện này xoay quanh việc tăng thu nhập cho người nông dân, nâng cao năng lực sản xuất tổng hợp nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới XHCN, hiện đại hoá nông nghiệp, tăng cường địa vị cơ bản của nông nghiệp và trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu thúc đẩy phát triển ổn định nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nông dân, giữ vững sự ổn định cho xã hội nông thôn.
Như vậy, từ sau Đại hội ĐCS Trung Quốc lần thứ XVI, Trung Quốc đã có sự thay đổi tư duy hay đột phá về tư duy trong phát triển xã hội ở nông thôn. Đó là từ việc bỏ rơi, hy sinh nông thôn sang chú trọng, phát triển nhịp nhàng giữa thành thị và nông thôn.
3. Nội dung cải cách
Xoay quanh chủ trương chính sách lớn tính toán tổng thể, nhất thể hoá giữa thành thị và nông thôn trên đây, Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số chính sách mới, thể hiện quyết tâm giải quyết vấn đề xã hội ở nông thôn như:
Một là, xoá bỏ thuế nông nghiệp toàn diện, giảm gánh nặng, tăng trợ cấp cho người nông dân. Bắt đầu từ năm 2004 Trung Quốc đưa ra mục tiêu xoá bỏ thuế nông nghiệp. Báo cáo công tác của Chính phủ năm 2004 đưa ra yêu cầu trong 5 năm phải thực hiện được mục tiêu này, nhưng đến năm 2006 đã xoá bỏ toàn bộ thuế nông nghiệp.
Hai là, chuyển trọng điểm xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển sự nghiệp xã hội sang nông thôn. Điều đã làm cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn như công trình nước sạch, công trình thuỷ lợi, đường sá, mạng lưới điện phát triển. Đồng thời tăng cường giáo dục nghĩa vụ, chế độ y tế, hợp tác nông thôn kiểu mới, bảo đảm mức sống tối thiểu ở nông thôn trong cả nước.
Ba là, đưa ra các chính sách mới giải quyết vấn đề bức xúc của người nông dân vào thành phố làm thuê, nổi bật là việc tính toán việc làm tổng thể giữa thành thị và nông thôn. Đặc biệt, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ, dòng người nông dân vào thành phố làm thuê mất việc quay trở về quê hương, Văn kiện số 1 năm 2009 đã đưa ra một số chủ trương chính sách giải quyết vấn đề này trong thời gian tới, như: khuyến khích các địa phương có điều kiện gộp người nông dân vào thành phố làm thuê mất việc vào phạm vi hỗ trợ chính sách việc làm; thực hiện chính sách giúp đỡ người nông dân vào thành phố làm thuê quay về quê hương lập nghiệp, cụ thể là hỗ trợ, miễn giảm thuế phí, đăng ký công thương, tư vấn thông tin, bảo đảm quyền lợi khoán ruộng đất hợp pháp của người nông dân vào thành phố làm thuê trở về quê hương, tạm thời trợ giúp mức sống tối thiểu đối với những nông dân vào thành phố làm thuê trở về quê hương có cuộc sống khó khăn.
Như vậy, thời gian đầu cải cách, do hạn chế về nguồn lực và cần có sự đột phá cho phát triển, Trung Quốc đã thực hiện chiến lược phát triển nghiêng lệch, đã phải hy sinh hay bỏ rơi khu vực. Giai đoạn sau, trình độ phát triển của Trung Quốc đạt đến một mức độ nhất định, xuất hiện những vấn đề xã hội cần có dự điều chỉnh về chiến lược phát triển. Thêm nữa, lúc này Trung Quốc có đủ khả năng để lấy công nghiệp phục vụ nông nghiệp, lấy thành thị lôi kéo nông thôn. Chiến lược phát triển cân bằng, ưu tiên cho phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn được lựa chọn thay thế.
Cụ thể cải cách như sau:
Trong đầu tư mở rộng nhu cầu nội địa, từ công trình an cư có tính bảo hiểm, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và những cơ sở hạ tầng quan trọng như đường sắt, đường bộ và sân bay đến phát triển y tế, văn hoá giáo dục và xây dựng môi trường sinh thái đều thể hiện đặc điểm nghiêng về nông thôn trong tham chiếu thành thị - nông thôn, nghiêng về miền Trung và miền Tây trong tham chiếu các khu vực.
Từ các thông tin gần đây do các bộ ngành công bố, Bộ nông nghiệp tăng mới đầu tư 5,15 tỷ NDT cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và công trình dân sinh, Bộ thuỷ lợi sẽ ưu tiên thu xếp 5 tỷ NDT để xây dựng công trình an ninh nước ăn cho nông thôn,trong 4,8 tỷ NDT của dự án đầu tư đặc biệt xây dựng y tế trị liệu cơ bản của Bộ y tế sẽ sử dụng 1,8 tỷ NDT cho xây dựng Bệnh viện cấp hương trấn, trong 4,4 tỷ NDT tăng thêm cho quỹ giáo dục của Bộ giáo dục, có 3 tỷ NDT sẽ được đầu tư vào công trình cải tạo ký túc xá nông thôn ở miền Trung và miền Tây…
Theo các chuyên gia, tiềm năng lớn nhất của việc mở rộng nhu cầu nội địa là ở nông thôn, Trung Quốc tiếp tục mở rộng đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, nâng cao năng lực sản xuất nông nghiệp, hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội nông thôn sẽ không chỉ mở ra thị trường tiêu thụ nông thôn lớn mà còn trợ giúp cho sự thay đổi kết cấu nhị nguyên thành thị - nông thôn.
Ngoài việc rót nhiều hơn vào khu vực nông thôn rộng lớn , Trung Quốc tập trung đầu tư vào những vùng trong nội địa như miền Trung và miền Tây. Từ những công trình thuỷ lợi ở Tân Cương, Quý Châu hay Giang Tây, những dự án sân bay dân dụng của Nội Mông, An Huy với tổng giá trị đầu tư lên tới 17,4 tỷ NDT tới những kế hoạch đầu tư của các bộ ngành vào nông nghiệp, năng lượng, giao thông, giáo dục, y tế, sinh thái… đều thể hiện rõ sự quan tâm của Trung Quốc đối với những khu vực kém phát triển ở miền Trung và miền Tây.
Những năm gần đây, khoảng cách thành thị - nông thôn và miền Đông - miền Tây của Trung Quốc ngày càng lớn, trở thành nhân tố bất lợi ngăn trở sự phát triển của kinh tế xã hội. Khu vực miền Tây tuy chiếm tới 71,5% tổng diện tích toàn quốc nhưng chỉ chiếm có 17,4% GDP của Trung Quốc. Khủng hoảng tài chính quốc tế ảnh hưởng bất lợi tới phát triển kinh tế nhưng ứng phó với khủng hoảng tài chính cũng tạo nên lực đẩy để thu hẹp khoảng cách thành thị nông thôn, miền Trung - miền Tây đồng thời tạo điều kiện cải thiện dân sinh, thực hiện phát triển lành mạnh kinh tế xã hội.
“Giải pháp mở rộng nhu cầu nội địa quốc gia, có lợi cho tăng trưởng kinh tế toàn quốc ổn định đồng thời hỗ trợ cho phát triển hài hoà giữa thành thị và nông thôn, giữa các khu vực”.
Cho đến nay, quá trình cải cách nông thôn Trung Quốc đã trải qua 3 giai đoạn, sau mỗi giai đoạn, quá trình cải cách thu được những kết quả nhất định.
Giai đoạn xây dựng thể chế kinh tế mới ở nông thôn (1978-1991) được bắt đầu từ việc thực hiện chế độ khoán trách nhiệm sản xuất tới hộ gia đình. Có thể nói, đây là giai đoạn “cởi trói”, với việc từng bước tháo gỡ những chính sách, biện pháp làm hạn chế sự phát triển của sức sản xuất xã hội, xây dựng thể chế kinh tế mới trong nông nghiệp và nông thôn, giải phóng sức sản xuất xã hội nông thôn.
Đến năm 1990, cơ cấu GDP theo ngành ở Trung Quốc lần lượt là: nông nghiệp: 27,1%, công nghiệp: 41,6%, dịch vụ: 31,3%. Cơ cấu GDP của nông thôn theo ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ lần lượt là 46,1%; 46,3%; 7,6%. Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn là 708 NDT năm 1991. Số người cùng kiệt đói trong giai đoạn này đã giảm xuống còn khoảng 80 triệu người. Đến năm 1992, Trung Quốc đã có 517 thành phố.
Trong giai đoạn cải cách và phát triển nông thôn trong bối cảnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa 1992-2000: Trung Quốc nêu nhiệm vụ xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục công cuộc cải cách mở cửa; đi sâu cải cách nông nghiệp nông thôn, ổn định và hoàn thiện chế độ khoán; xây dựng hệ thống thị trường nông thôn; phát triển ngành nghề hoá nông nghiệp; chuyển biến chức năng của chính quyền; đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn. Đến năm 2006, Trung Quốc tiến hành xóa bỏ thuế nông nghiệp.
Có thể thấy, khi kết thúc giai đoạn này, bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc đã có những thay đổi to lớn: từ sản xuất lương thực đơn thuần trước đây đã chuyển sang sản xuất nhiều chủng loại lương thực, thực phẩm; ngành nghề kinh doanh đa dạng, nhiều thành phần, chế độ thu mua lương thực và lưu thông hàng hoá ở nông thôn được cải cách, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch rõ nét, mức độ thị trường hoá của nông thôn mở rộng hơn; các giai tầng ở nông thôn có sự phân hoá.
Giai đoạn cải cách và phát triển nông thôn trong bối cảnh hội nhập quốc tế (2001-2008) được khởi đầu bằng sự kiện Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), năm 2001, đánh dấu quá trình hội nhập toàn diện vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế khu vực và thế giới.
Việc Trung Quốc tham gia sâu rộng vào thị trường nông sản thế giới, có lợi cho phát triển nông nghiệp, tạo môi trường và điều kiện để đẩy nhanh hiện đại hoá nông nghiệp, thế nhưng, “tam nông” vẫn là khâu yếu trong tiến trình cải cách, xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. Từ năm 2003, vấn đề “tam nông” trở thành trọng tâm trong công tác của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.
Cải cách nông thôn bước vào giai đoạn mới khi Trung Quốc đưa ra chủ trương xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới với nội dung và yêu cầu nêu trong “Ý kiến về thúc đẩy xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa” (Văn kiện số 1 năm 2006) và “Cương yếu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ XI”: “sản xuất phát triển, đời sống sung túc, thôn làng văn minh, thôn xã gọn gàng, quản lý dân chủ ”. Trong giai đoạn này, Trung Quốc thực hiện “lấy công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp, thành thị lôi kéo nông thôn”, nhất thể hóa phát triển kinh tế - xã hội thành thị - nông thôn. Cải cách nông thôn với cách nhìn nhận “lấy con người làm gốc”, coi trọng giải quyết vấn đề việc làm và tăng thu nhập cho nông dân.
4. Kết quả đạt được
Với tư duy phát triển xã hội nông thôn như trên và những chính sách, biện pháp cụ thể của Đảng và Chính phủ Trung Quốc, trong những năm gần đây, bộ mặt xã hội nông thôn Trung Quốc đã bước đầu khởi sắc. Điều này thể hiện ở một số lĩnh vực sau:
1. Giảm nhẹ gánh nặng cho người nông dân
Nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho người nông dân, trong những năm gần đây, Trung Quốc thực hiện việc cải cách thuế phí và xoá bỏ toàn bộ thuế nông nghiệp, mỗi năm đã giảm được gánh nặng cho người nông dân 133,5 tỷ NDT. Đồng thời, Trung Quốc thực hiện chế độ trợ cấp nông nghiệp, như trợ cấp lương thực, giống cây trồng, mua máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất nông nghiệp cho nông dân. Bắt đầu bằng việc trợ cấp giống lương thực, giống cây trồng tốt, trợ cấp cho người nông dân mua máy móc nông nghiệp, tiếp đến bắt đầu từ năm 2006 thực hiện trợ cấp mua tư liệu sản xuất cho người nông dân, đến năm 2007 đưa ra trợ cấp với thịt lợn, ngành sữa, ngành sản xuất dầu ăn. Những biện pháp này đã phát huy tính tích cực của nông dân.
Ở một số tỉnh, chính quyền đã thực hiện tốt chính sách miễn thu thuế nông nghiệp, giảm gánh nặng cho người nông dân.
2. Xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn
Thực hiện chủ trương tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho nông thôn, trong giai đoạn từ 2002 đến 2007, Chính phủ Trung ương Trung Quốc đã đầu tư tổng cộng 1600 tỷ NDT cho tam nông, trong đó đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng là 300 tỷ NDT, đồng thời các địa phương cũng tăng cường đầu tư thêm.
Xây dựng hệ thống phòng chống dịch bệnh động vật. Cho đến nay, việc xây dựng mạng lưới điện lớn đã phủ rộng tới khoảng 95% dân số nông thôn, còn 5% nữa sẽ thông qua các biện phát khác để cung cấp điện. Hiện nay trong cả nước Trung Quốc đã có khoảng 87% thôn hành chính thông xe khách và tỷ lệ này sẽ còn được nâng cao trong những năm tới. Bước sang năm 2009, theo tinh thần của Văn kiện số 1 “Một số ý kiến của Trung ương Đảng và Quốc vụ viện Trung Quốc về việc thúc đẩy ổn định phát triển nông nghiệp trong năm 2009, nông dân tiếp tục tăng thu nhập”, trọng tâm công tác xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn Trung Quốc tiếp tục tập trung vào việc điều chỉnh quy hoạch tăng cường đầu tư, xây dựng công trình nước sạch ở nông thôn, mấy năm trước đây mỗi năm giải quyết vấn đề nước sạch cho 30 triệu nông dân, từ năm 2009 mỗi năm sẽ giải quyết vấn đề nước sạch cho trên 60 triệu nông dân.
Mở rộng diện bao phủ cung cấp điện, đẩy nhanh việc tính giá điện chung, mạng điện chung giữa thành thị và nông thôn. Tăng cường đầu tư tài chính cho việc xây dựng đường sá ở nông thôn khu vực miền Trung, miền Tây. Xây dựng chế độ trợ cấp vận tải hành khách ở nông thôn. Tăng cường xây dựng các công trình khí đốt ở nông thôn, trước đây mỗi năm Trung ương đầu tư 2 tỷ NDT, từ năm 2009 sẽ tăng cường đầu tư hơn mức này, để mỗi năm có thể giải quyết được vấn đề khí đốt cho 4 triệu đến 6 triệu nông dân. Ngoài ra, Văn kiện số 1 năm 2009 còn chỉ rõ việc mở rộng việc thí điểm cải tạo nhà ở nguy hiểm ở nông thôn.
3. Giải quyết vấn đề việc làm ở nông thôn
Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, bắt đầu từ những năm 1980, với khẩu hiệu “vào xưởng nhưng không vào thành phố, rời đất nhưng không rời làng”, ở nông thôn Trung Quốc xuất hiện hàng loạt những xí nghiệp hương trấn và chính những xí nghiệp hương trấn này đã giải quyết khối lượng việc làm đáng kể ở nông thôn. Cho đến những năm 1990, sự phát triển của xí nghiệp hương trấn chậm lại, người nông dân muốn tăng thu nhập chỉ có bằng cách tự chủ kinh doanh, đi vào thành phố làm thuê. Dòng di dân từ nông thôn vào thành phố làm thuê được khái quát là “rời đất rồi lại rời làng”. Nhưng vào thành phố làm thuê, người nông dân Trung Quốc cũng gặp không ít khó khăn, như mức lương thấp hơn so với người dân thành thị hay vấn đề nhà ở, bảo hiểm y tế, con cái đi học, v.v...
Trước thực trạng người nông dân gặp nhiều khó khăn trong vấn đề việc làm, trong những năm gần đây Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số chủ trương chính sách lớn như văn kiện số 1 “ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quốc vụ viện về một số chính sách thúc đẩy tăng thu nhập cho nông dân” ban hành vào cuối năm 2003, nhấn mạnh phương châm “cho nhiều, lấy ít làm sống động”, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nông dân, đẩy nhanh tiến bộ khoa học, đi sâu cải cách nông thôn, tăng đầu tư cho nông nghiệp, nỗ lực làm cho thu nhập của nông dân tăng nhanh, nhanh chóng làm thay đổi tình trạng chênh lệch thu nhập giữa người dân thành thị và người dân nông thôn đang không ngừng gia tăng.
Điều đáng chú ý là, với thành công trong việc giải quyết việc làm cho người nông dân ở các khu chuyên doanh, cụm công nghiệp ở Chiết Giang, Quảng Đông đã được Đảng và Chính phủ Trung Quốc thừa nhận bằng việc văn kiện số 1 năm ban hành ngày 31-12-2005 đã đưa ra đường lối chủ trương khuyến khích đẩy mạnh việc phát triển mỗi thôn sản xuất, kinh doanh một loại hàng hoá. Chú trọng đến việc làm cho huyện phát triển dân giàu bồi dưỡng những ngành nghề
Về đầu tư cho y tế ở nông thôn, văn kiện số 1 lần thứ tám yêu cầu các cấp chính phủ không ngừng tăng đầu tư, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng y tế ở nông thôn với bệnh viện hương trấn là trọng điểm, kiện toàn dịch vụ y tế ba cấp và hệ thống cứu trợ y tế. Những địa phương có điều kiện có thể thực hiện chế độ trợ cấp đối với các bạn sỹ hương thôn. Xây dựng hệ thống cung ứng, giám sát, quản lý thuốc ở nông thôn phù hợp với mức thu nhập của người nông dân, quy phạm dịch vụ y tế ở nông thôn. Tăng dự toán kinh phí cho đào tạo nhân tài y tế nông thôn. Khuyến khích các lực lượng xã hội tham gia sự nghiệp y tế ở nông thôn.
Ngoài ra, Văn kiện số 1 ban hành ngày 31-12-2005 còn nhấn mạnh các biện pháp xây dựng hệ thống an sinh xã hội khác ở nông thôn, như tăng cường đầu tư tài chính công cho việc xây dựng chế độ an sinh xã hội ở nông thôn, từng bước hoàn thiện hệ thống cứu trợ xã hội như nuôi dưỡng các hộ thuộc diện 5 bảo đảm (bảo đảm về ăn, mặc, nhà ở, y tế, mai táng), cứu trợ sinh hoạt đối với những hộ đặc biệt khó khăn, trợ cấp đối với những người dân bị thiên tai; thăm dò việc xây dựng chế độ bảo hiểm dưỡng lão phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn và đồng bộ với các biện pháp an sinh xã hội khác; thực hiện chính sách an sinh đối với thân nhân các gia đình liệt sỹ.
5. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình cải cách nông thôn Trung Quốc
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình cải cách nông thôn, nhưng ở nông thôn Trung Quốc vẫn còn những vấ nđề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Đó là:

- Mức độ chênh lệch giữa thành thị và nông thôn có xu hướng ngày càng lớn, thể hiện ở cả mức thu nhập, tiêu dùng, phúc lợi xã hội, đời sống văn hoá.
- Số lao động dôi dư ở nông thôn còn nhiều, lao động nông nghiệp còn đông. Quan hệ giữa công nghiệp - nông nghiệp; thành thị - nông thôn mất cân đối, không hài hòa. Quá trình chuyển hoá gia công nông sản chậm, giá trị ngành nuôi trồng còn thấp. Nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển chưa bền vững. Ngoài ra, chênh lệch giữa nông thôn miền Đông với nông thôn miền Tây Trung Quốc cũng còn khá lớn.
- Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động mất cân đối. Năm 2006, cơ cấu ngành kinh tế lần lượt là nông nghiệp:11,7% (I); công nghiệp: 48,9 % (II); dịch vụ: 39,4% (II), trong khi cơ cấu lao động theo ngành kinh tế lần lượt là 42,6%: 25,2%; 32,2%(3). Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động mất cân đối là nét đặc trưng nhất của cơ cấu nhị nguyên thành thị - nông thôn ở Trung Quốc.
Cơ cấu nhị nguyên thành thị - nông thôn là hiện tượng phổ biến tại các nền nông nghiệp. Tuy nhiên, cơ cấu nhị nguyên thành thị - nông thôn của Trung Quốc có tính đặc thù và rõ nét. Trung Quốc đã lấy nhiều nguồn lực từ nông nghiệp nông thôn, dồn nhiều nguồn lực phát triển công nghiệp, đô thị, hạn chế dịch chuyển các yếu tố sản xuất giữa nông thôn và thành thị. Do vậy đã tạo thành hai mảng kinh tế độc lập, khác tính chất, hai nhóm lợi ích khác nhau. Cơ cấu trên thường được gọi là cơ cấu nhị nguyên thành thị - nông thôn(4). Đây là một trong những trở ngại chính của tiến trình cải cách nông thôn ở Trung Quốc trong thời gian tới./.
6. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trung Quốc không phải là nước duy nhất thực hiện cải cách kinh tế, xoá bỏ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cũ, song nước này đã gặt hái được nhiều thành công khiến cho các nước khác phải ngưỡng mộ. Nhiều người cho rằng các nước chuyển đổi sang nên kinh tế thị trường "nhất định sẽ kéo theo các xung đột đổ máu hay ít ra là mất mát và thiếu thốn vật chất. Kinh nghiệm của các nước Trung và Đông Âu, của Nga và các nước SNG khác dường nhu khẳng định điều đó. Sự thành công trong cải cách của Trung Quốc là một minh chứng ngược lại. Việt Nam nên xem xét các bài học kinh nghiệm quan trọng này
Bài học thứ 1- Cải cách toàn diện, song phải coi cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm.
Ngay từ đầu, Trung Quốc đã chủ trương cải cách toàn diện. Đặng Tiểu Bình: " Cải cách là toàn diện, bao gồm cải cách thể chế kinh tế, cải cách thể chế chính trị và cải cách các lĩnh vực tương ứng khác".
Trung Quốc tuy chủ trương cải cách toàn diện, song khi thực hiện phải có trọng điểm tập trung sức lực. Trọng điểm chính là cải cách thể chế kinh tế. Sở dĩ Trung Quốc cải cách thành công vì trong khi cải cách tất cả các lĩnh vực, họ đã kiên trì coi cải cách kinh tế làm trọng điểm. Một số quốc gia khác cải cách thất bại, bởi vì cải cách kinh tế chưa có kết quả gì rõ rệt, đã vội vã chuyển trọng điểm sang lĩnh vực khác, làm cho chính trị không ổn định, mà cải cách kinh tế cũng bị buông lỏng, kết quả là cả kinh tế lẫn chính trị đều bị rối loạn.
Bài học thứ 2- Kiên trì lựa chọn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thay thế cho thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống.
Bài học thứ 3- Kiên trì sách lược cải cách kiểu tiến dần từng bước.
Ngay từ khi mới bắt đầu cải cách, Trung Quốc đã xác định không dùng phương án cải cách kiểu "bùng nổ" , mà đã kiên trì phương án "đò đã qua sông", áp dụng phương châm trước dễ sau khó, tiến dần từng bước , giảm bớt rủi ro. Thực hiện chứng minh cách làm này là phù hợp với Trung Quốc, mang lại kết quả rõ rệt, tránh được những va chạm xã hội lớn và sự phân hoá hai cực quá nhanh như đã xảy ra ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu do thực hiện "liệu pháp sốc". Cải cách kiểu tiến dần phải trả giá nhất định như thời gian cải cách tương đối dài, tác dụng tiêu cực của thể chế cũ kéo dai dẳng, song cuộc cải cách được thúc đẩy trong điều kiện xã hội tương đối ổn định, tuyệt đại đa số nhân dân được hưởng lợi ích của cải cách.
Cải cách theo cách tiến dần của Trung Quốc thể hiện ở mấy phương diện quan trọng sau :
- Sau khi cải cách ở nông thôn thu được những kết quả thực tế mới mở rộng ra thành phố, đến năm 1984 cuộc cải cách mới lấy thành phố làm trung tâm.
- Ra sức thúc đẩy sự phát triển kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước, biến nó thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế 20 năm qua; sau đó thực hiện có trọng điểm cải tổ chiến lược khu vực kinh tế nhà nước và cải cách các xí nghiệp nhà nước.
- Trong việc xây dựng hệ thống thị trường, thì trước hết phát triển thị trường hàng hoá tiêu dùng rồi đến hàng hoá tư liệu sản xuất, sau đó mới chú ý phát triển thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, sức lao động, kỹ thuật , thông tin v.v…
- Cải cách giá cả, được coi là mấu chốt, quan hệ đến sự thành bại của toàn bộ cải cách thể chế kinh tế, vì vậy đã được tiến hành rất thận trọng, kết hợp giữa điều chỉnh và thả lỏng, điều chỉnh trước, thả lỏng sau, sau đó mới gắn với giá cả của thị trường quốc tế. Trong nền kinh tế kế hoạch , mọi sản phẩm đều không được thể hiện chính xác giá cả của nó; cuộc cải cách giá trước hết thực hiện thị trường hoá giá cả các hàng hoá hiện vật và các dịch vụ, rồi dần dần thực hiện thị trường hoá giá các yếu tố sản xuất.
- Về kế hoạch hoá các khâu sản xuất, lưu thông, giá cả… thì trước hết cho phép một phần tồn tại ngoài kế hoạch, rồi dần dần mở rộng ra; phần theo kế hoạch thì thu hẹp lại dần. Khi điều kiện đã chín muồi thì thực hiện sự điều tiết của thị trường. Việc từng bước hợp nhất chế độ hai giá của tư liệu sản xuất là ví dụ nổi bật về sự quá độ yên ổn từ thể chế cũ sang thể chế mới một cách tiên tiến.
- Trong mở cửa đối ngoại, mở đầu là xây dựng các đặc khu kinh tế, các thành phố ven biển, sau đó dần dần mở cửa sâu vào nội địa, và đến nay mới hình thành cục diện mở cửa ra mọi hướng, mọi cấp độ.
Bài học thứ 4- Xử lý đúng đắn quan hệ biện chứng giữa cải cách, phát triển và ổn định.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cải cách của Trung Quốc tương đối thành công là trong tiến trình cải cách đã coi trọng và xử lý đắn quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định.
Trước hết, phải duy trì được tốc độ phát triển kinh tế thích hợp. Hiện tại Trung Quốc được đánh giá đang ở giai đoạn cất cánh, cần tăng trưởng với tốc độ cao, nhưng không thể quá cao. Bởi vì, nền kinh tế của Trung Quốc vẫn theo cách tăng trưởng theo chiều rộng là chính, vẫn dựa vào đầu tư; nếu đòi hỏi tăng trưởng cao, sẽ xuất hiện cơn sốt đầu tư, lạm phát tăng, vật giá leo thang, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế. Điều đó diễn ra vào các năm 1992, 1993. Để hạ sốt, giảm lạm phát, ắt sẽ phải xiết chặt tiền tệ, hạ nhanh ốc độ tăng trưởng, làm cho nền kinh tế bị giao động lớn, gây mất ổn định. Nếu duy trì tốc độ phát triển quá thấp, sẽ không có lợi cho vấn đề việc làm, thua lỗ của các xí nghiệp nhà nước, thu nhập tài chính. Các học giả Trung Quốc cho rằng tốc độ phát triển kinh tế hàng năm 8 - 9% là thích hợp.
Thứ hai, phải giữ cho mức độ tăng hàng năm của vật giá bán lẻ ở mức dưới 10%. (tỷ lệ lạm phát phù hợp). Tình hình Trung Quốc một số năm cho thấy, một khi giá cả tăng trên 10% là nhân dân kêu cao, bất bình, là có tới 20% cư dân thành phố bị hạ thấp thu nhập, do đó ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nếu giá cả xuống thấp quá, nó chứng tỏ nền kinh tế đã bị ép giảm quá mức độ, hàng hoá dư thừa, sản xuất kém, không có lợi cho sự hoạt động bình thường của nền kinh tế và sự linh hoạt của thị trường.
Thứ ba, việc thực hiện các biện pháp cải cách cần tính toán đầy đủ đến sự ổn định về tiêu dùng của người dân. Có rất nhiều lĩnh vực cần cải cách có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân như vấn đề nhà ở, chữa bệnh, bảo hiểm, dưỡng lão, giáo dục, lao động tiền lương…
Thứ tư, giữ vững chủ trương cùng giàu có, đề phòng và giảm bớt mức chênh lệch quá lớn giữa các cá nhân, các đơn vị, các địa phương . Trong quá trình cải cách, giữa các tầng lớp dân cư và các địa phương, giữa thành thị và nông thôn đều có hiện tượng chênh lệch thu nhập tăng lên, vấn đề phân phối không công bằng ngày càng bộc lộ và nổi cộm.
Bài học thứ 5: Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách trong nước với mở cửa ra thế giới.
Trung Quốc coi cải cách và mở cửa là hai mặt của một chỉnh thể. Sự kết hợp giữa hai mặt này là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của cải cách.
Một thời kỳ dài trước đây, Trung Quốc đã thực hiện bế quan toả quốc. Đây là một giai đoạn tương tự như trong tiến trình phát triển của Việt Nam. Và theo đó, hậu quả là không thành công trong việc hiện đại hoá kinh tế, trì trệ lạc hậu kéo dài, không tiếp thu được thành quả văn minh của loài người, không tận dụng được nguồn vốn bên ngoài, không tham gia được vào sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế.
Xuất phát từ thực tế như vậy, tư duy của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã có sự thay đổi và nhận thức. Nghĩa là chủ nghĩa xã hội phải tiếp thu mọi thành quả văn minh của nhân loại, đặc biệt là của các nước phát triển phương Tây; chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng của tiến trình phát triển lịch sử của loại người, nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà nó sáng tạo ra trong mấy trăm năm vượt qua tất cả những gì mà loài người đã tạo ra trước đó.
Trung Quốc xây dựng CNXH trên cơ sở kinh tế văn hoá lạc hậu, càng phải thực hiện mở cửa, tiếp thu thành quả văn minh của thế giới, do đó không những phải cải tạo thể chế cũ xây dựng thể chế mới, mà còn phải tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến và phương pháp quản lý kinh doanh của các nước tư bản phát triển. Trong quá trình đó, Trung Quốc đã có chọn lọc để không tiếp thu những mặt không tốt của các nước này. Đây chính là nội dung quan trọng cần học tập đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top