thanchet_144

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Đặc điểm xu hướng phát triển của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Trung Quốc

Sau các cuộc phát kiến địa lý để tìm ra những con đường thương mại mới giữa phương Đông và Phương Tây nó đã mở ra một thời kỳ đen tối của các nước Á, Phi, Mỹ Latinh. Đó là quá trình xâm thực và thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây đến các nước trong các khu vực này, nhằm cướp bóc nguyên liệu, nguồn lao động cũng như là mở rộng thị trường tiêu thụ. Tùy vào bản thân các nước nước thực dân xâm lược thì có những chính sách thống trị khác và điều đó nó qui định mức độ và phương pháp đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh sau khi rơi vào vòng xoáy xâm lược của chủ nghĩa thực dân Châu Âu từ giữa thế kỷ XIX thì phong trào đấu tranh chống xâm lược của các nước cũng nổ ra rầm rộ khắp nơi với nhiều xu thế cũng như lôi kéo được nhiều giai tầng trong xã hội tham gia đấu tranh và tùy theo đặc điểm của từng nước thì phong trào đấu tranh cũng do nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội lãnh đạo để đưa cách mạng đi đến thắng lợi.
Tiêu biểu trong số phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân ở Châu Á có phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân Trung Hoa. Nó mạng những nét đặc trưng điển hình của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể. Nó trải qua thử nghiệm của tất cả các xu hướng, con đường cứu nước ở Châu Á từ đấu tranh theo ý thức hệ phong kiến đến đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản và cuối cùng là con đường cách mạng vô sản – con đường đưa đến thành công cho cách mạng Trung Quốc để cho ra đời nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949. Thực tiễn đã chứng minh quá trình thực hiện con đường cứu nước này là có sự trải nghiệm, đúc kết từ những bài học xương máu của cách mạng Trung Hoa qua các giai đoạn trước đó.




MỤC LỤC

Bài tập: Qua các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á. Anh chị hãy lựa chọn một phong trào giải phóng dân tộc tiêu biểu. Giải thích lý do vì sao lựa chọn phong trào đó?
MỞ BÀI
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ 1
1. Thế giới 1
2. Trong nước 2
II. ĐẶC ĐIỂM XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX Ở TRUNG QUỐC 5
1. Xu hướng đấu tranh mang ý thức hệ phong kiến thể hiện tính dân tộc sâu sắc 5
2. Phong trào đấu tranh chống đế quốc thực dân và phong kiến theo khuynh hướng tư sản, tiến bộ nhưng không thành công 8
3. Phong trào độc lập dân tộc dân chủ của giai cấp tư sản – cách mạng Tân Hợi (1911), một cuộc cách mạng tư sản không triệt để 10
4. Phong trào Ngũ Tứ - bước phát triển mới của cách mạng Trung Quốc, đánh dấu cách mạng chuyển từ giai đoạn dân chủ cũ sang giai đoạn dân chủ mới 12
5. Đánh giá con đường cứu nước ở Trung Quốc từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1919 13
III. CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐÚNG ĐẮN DẪN ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC (1919 – 1949) – CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN 14
1. Nhân tố quyết định đến việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản 14
2. Quá trình đấu tranh giành quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản Trung Quốc trước sự đối trọng với Quốc dân Đảng 15
3. Ý nghĩa việc thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Sự toàn thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc 19
4. Con đường cứu nước ở Trung Quốc mang đặc điểm tiêu biểu trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á 20
KẾT LUẬN
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1. Thế giới
Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nhiều biến động lớn, tác động sâu sắc đến con đường giải phóng dân tộc trên thế giới nói chung và ở Trung Quốc nói riêng.
Thứ nhất, khoảng những thập niên 70 của thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản trên thế giới chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc, với nhiều hình thức bóc lột ngày một tinh vi hơn đối với nhân dân thuộc địa và cả nhân dân chính quốc. Chúng xâu xé và tranh giành nhau từng thị trường để vơ vét tài nguyên thiên nhiên, lao động và thị trường tiêu thụ, đồng thời khẳng định vị thế của mình. Từ những chính sách bóc lột đó đã nảy sinh xã hội thuộc địa với những lực lượng mới (tư sản, vô sản) đông đảo, ngày càng ý thức được trách nhiệm và vai trò lịch sử của mình.
Đối với Anh vào những thập niên cuối của thế kỷ XIX là quốc gia có thuộc địa rộng lớn nhất thế giới, sau nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược tàn bạo chủ nghĩa thực dân Anh đã xây dựng được cơ sở vững chắc Ấn Độ, Ôxtrâylia, Canađa, Miến Điện,… Còn Mỹ sau cuộc nội chiến vào cuối những thập niên 60 của của thế kỷ XIX đã mở đường cho chủ nghĩa tư bản Mỹ tiếp tục phát triển lên bước cao hơn trở thành một quốc gia công nông nghiệp đứng hàng đầu thế giới. Riêng Đức, sau thắng trận trong chiến tranh Pháp-Phổ đã trở nên lớn mạnh, được Pháp bồi thường 5 tỷ phrăng và thu được hai khu vực mang lại nguồn lợi kinh tế cao từ Pháp là Andat và Loren, tiến hành chiến tranh chiếm các đảo Carôlina, Marian, thành lập những căn cứ quân sự ở Châu Úc và Đông Nam Á. Còn về phía Pháp sau khi bại trận trong chiến tranh với Đức đã tiến hành tăng cường xâm chiếm và bóc lột thuộc địa ở Châu Phi và Châu Á. Ngoài các nước đế quốc điển hình trên thì còn có cả Nga, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,… là những nước đế quốc điển hình tiến hành xâm lược và gieo rắc chủ nghĩa thực dân khắp các dân tộc Á, Phi, Mỹ Latinh trên khắp thế giới. Tuy có khác nhau về con đường và biện pháp xâm lược nhưng chúng đều cùng chung một mục tiêu là vơ vét nguyên liệu, thị trường và nguồn lao động ở thuộc địa. Và một trong những miếng mồi ngon mà các nước tiến hành nhòm ngó và xâu xé lúc bấy giờ là Trung Quốc.
Thứ hai, sự phân chia khu vực ảnh hưởng không đều là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc chiến tranh đế quốc năm 1914 giữa hai phe: phe Hiệp ước (Anh, Pháp, Nga, sau thêm Nhật, Ý) và phe Liên minh (Đức, Áo-Hung, sau thêm Thổ Nhĩ Kỳ, Bungari) để chia lại thị trường thế giới. Các nước đế quốc tham chiến tăng cường bóc lột thuộc địa về người và của để đổ vào cuộc chiến. Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1918, sự vơ vét, bóc lột càng thêm xiết chặt dù là nước thắng trận hay bại trận đều bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cần có chi phí khôi phục và bồi thường chiến phí. Và chính sự vơ vét bóc lột ngày một dã man đó, nó đã khuấy động và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa ngày một lên cao.
Thứ ba, giai cấp vô sản dần dần nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình và ngày càng khẳng định vị trí vững chắc của mình trên vũ đài chính trị thế giới. Sau khi nhà nước vô sản đầu tiên tan rã sau 72 ngày tồn tại và sự thất bại của quốc tế II thì lần đầu tiên giai cấp vô sản đã khẳng định được địa vị chính trị của mình trên trường quốc tế bằng cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, giai cấp vô sản đã thắng thế giành lấy thành công cuộc cách mạng cho giai mình. Cùng với lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa xã hội khoa học trở thành ngọn đuốc sáng soi đường chỉ lối cho các dân tộc bị áp bức Á, Phi, Mỹ Latinh tìm đường giải phóng dân tộc mình.
Thứ tư, tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập ở Matxcơva đánh dấu một giai đoạn mới trong quá trình phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Đây là thời gian hàng loạt các Đảng Cộng sản ra đời: Đảng Cộng sản Pháp(1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc(1921), Đảng Cộng sản Việt Nam (1930),… trở thành các tổ chức chính trị lãnh đạo ngọn cờ cách mạng của dân tộc dưới sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản.
2. Trong nước
Cuối thế kỷ XIX, tình hình Trung Quốc trở nên rối ren, xã hội bất ổn, kinh tế suy sụp, các con đường cứu nước trước đây đều lần lượt bị thất bại. Cùng với đó là sự vây hãm xâu xé của các nước đế quốc bên ngoài. Đất nước Trung Quốc rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và trở nên tê liệt.
Về chính trị: Chế độ phong kiến bước vào giai đoạn suy thoái, cuộc sống của nhà vua xa hoa, trụy lạc làm cho bọn hoạn quan có điều kiện hoành hành.
Về kinh tế: Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Thanh làm cho nền thương nghiệp không phát triển. Lực lượng sản xuất cũng không phát triển mà ngày càng trở nên cùng kiệt nàn lạc hậu, kiềm hãm sự phát triển công thương nghiệp. Nông nghiệp với kĩ thuật sản xuất lạc hậu, người nông dân bị bần cùng hóa, đời sống gặp nhiều khó khăn. Nạn tham nhũng của quan quân triều đình làm kiệt quệ nền kinh tế quốc gia. Quốc khố trống rỗng do triều đinh tiêu xài phung phí và chi cho khoản bồi thường chiến phí.
Về xã hội: Sau khi cuộc chiến tranh thuốc phiện với thực dân Anh bị thất bại do sự nhu nhược và hèn yếu của chính quyền Mãn Thanh, Trung Quốc đã kí với thực dân Anh hiệp ước Nam Kinh (1842) với những điều khoản nặng nề, phải bồi thường cho Anh 21 triệu bảng Anh và mở 5 cửa biển quan trọng cho Anh tự do thông thương: Quảng Châu, Phúc Châu, Ninh Ba, Hạ Môn, Thượng Hải. Anh được quyền lãnh sự tài phán ở Trung Quốc. Sau đó, Trung Quốc còn kí với các nước đế quốc khác hàng loạt các hiệp ước bất bình đẳng: kí với Mỹ hiệp ước Vọng Hạ (7 - 1884), với Pháp hiệp ước Hoàng Phố(10 -1884), … các điều ước đó đã đáp ứng một phần thị trường buôn bán có lợi cho bon đế quốc và đẩy Trung Quốc vào tình trạng phụ thuộc.
Phong trào đấu tranh phản Thanh phục Minh (Thiên địa Hội, Hồng hoa Hội,…) diễn ra ngày càng rầm rộ, cuộc đấu tranh của nhân dân ngày mở rộng khắp nơi. Đó là những nguyên nhân làm cho xã hội Trung Quốc bất ổn, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội lúc bấy giờ.
Chính sách giáo dục ngày càng lỗi thời, lạc hậu không bắt nhịp những tiến bộ thời đại, giao lưu với thế giới.
Xã hội Trung Quốc sau khi cấm thuốc phiện trong thời gian không bao lâu thì nay với chính sách mở của của thực dân Anh thì khói thuốc phiện càng tràn ngập khắp nơi. Thị trường Trung Quốc bị mở toan với sự tràn ngập và cạnh tranh của hàng hóa các nước đế quốc, làm lũng đoạn nền kinh tế trung Quốc. Trước tình cảnh đó, triều đình đã bất lực nay lại còn lao vào con đường ăn chơi sa đọa, sách hạch những nhiễu người dân bằng thuế khóa và lao dịch rất nặng nề, tất cả những gánh nặng của xã hội đều đè nặng trên vai của nhân dân. Chính sự rối ren đó đã biến xã hội Trung Hoa trở thành nơi hội tụ nhiều mâu thuẫn: giữa đế quốc với nhân dân, nội bộ phe chủ chiến và chủ hòa trong triều đình, tư sản với vô sản, triều đình phong kiến với nhân dân yêu nước chống đế quốc phong kiến, tất cả những mâu thuẫn đó làm cho xã hội Trung Quốc đã rối ren nay lại còn xáo trộn hơn.
Sự thất bại của các con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến (Thái bình Thiên quốc, Nghĩa Hòa Đoàn) khuynh hướng tư sản (Duy tân Mậu tuất) và dân chủ tư sản (cách mạng Tân Hợi – 1911), đã đưa đến sự khủng hoảng trong con đường giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bởi lập trường đấu tranh chưa vững chắc, tư tưởng còn thủ cựu, tư tưởng đổi mới còn nữa vời, không được triều đình ủng hộ tuyệt đối, không phổ quát sâu rộng trong quần chúng nhân dân, cách mạng dân chủ tư sản lại không triệt để… nên việc thất bại chỉ là sớm muộn. Lúc này cách mạng Trung Quốc đã bế tắc đang lâm vào bước đường cùng, trong bóng tối cuối đường hầm. Trước tình hình đó, một yêu cầu cấp bách đặt ra cho xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ là phải có một con đường đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước.
Như vậy, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình Trung Quốc đầy biến động, nhưng Trung Quốc vẫn tự cho mình là dân tộc phát triển với nền văn minh cao. Cho đến khi bị các nước thực dân phương Tây xâm chiếm Trung Quốc mới thấy mình thấp kém như thế nào. Vì vậy, việc mất nước không phải là một điều tất yếu. Nguyên nhân chính là do những mặt tiêu cực trong các chính sách đối nội và đối ngoại của vương triều phong kiến Mãn Thanh đã kiềm hãm sự phát triển đất nước, làm cho xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy vong trầm trọng hơn. Sự suy yếu đó, về khách quan đã tạo điều kiện cho các cuộc xâm lược của thực dân phương Tây, chính sách đối nội của Mãn Thanh sai lầm nghiêm trọng nên không có khả năng tập hợp lực lượng quần chúng để chống ngoại xâm mà còn đi ngược lại quyền lợi dân tộc. Thậm chí triều đình còn bạc nhược, mờ nhạt trong các cuộc đấu tranh chỉ vì đặt quyền lợi dòng tộc lên trên quyền lợi dân tộc đã từng bước nhượng bộ rồi đầu hàng, cuối cùng làm tay sai cho thực dân. Do đó, việc mất nước tù chỗ không tất yếu đã dẫn đến tất yếu.
Đến giai đoạn sau, cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, nội phản đã do nhân dân đảm nhận. Đặc biệt với sự ra đời của giai cấp công nhân, thành lập Đảng Cộng sản. Năm 1921, Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời trở thành ngọn cờ tiên phong lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh. Đồng thời cùng chạy đua song song với Quốc dân Đảng để giành quyền lãnh đạo cách mạng Trung Quốc. Đến cuộc nội chiến năm 1946 - 1949, Đảng Cộng sản đã khẳng định được vị thế của mình trong cuộc chạy đua này và dẫn dắt nhân dân làm nên thắng lợi vẻ vang thì quyền lợi của dân tộc, nhân dân đã giành lại hoàn toàn.
II. ĐẶC ĐIỂM XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX Ở TRUNG QUỐC
1. Xu hướng đấu tranh mang ý thức hệ phong kiến thể hiện tính dân tộc sâu sắc
Trong bối cảnh chung của châu Á, châu Phi vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nước phải tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập. Tùy theo tình hình cụ thể của mỗi nước, đặc biệt là lực lượng và tương quan của các giai cấp (nhất là những giai cấp chống lại sự thống trị của thực dân) đã xuất hiện những con đường, cách cứu nước khác nhau. Muốn có con đường cứu nước hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, các dân tộc thuộc địa đã phải trải qua cuộc đấu tranh, sự lựa chọn từ thấp lên cao cùng với sự trưởng thành của các tầng lớp xã hội và ý thức của họ. Cho nên con đường đi đến cái đích độc lập cũng khác nhau. Trong đó có Trung Quốc.
a. Phong trào Thái Bình Thiên Quốc
Phong trào Thái Bình Thiên Quốc là phong trào khởi nghĩa nông dân lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc tồn tại trong khoảng thời gian (1851 – 1864), là một tổ chức đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Cuộc đấu tranh kéo dài hơn 14 năm trời, đã xây dựng được một chính quyền và thi hành nhiều biện pháp cách mạng tiến bộ. Lần đầu tiên trong lịch Trung Quốc có sự bình đẳng giới giữa nam và nữ. Người phụ nữ được quan tâm tôn trọng, được biết đến cái gọi là bình đẳng.
Thực hiện chế độ bình quân ruộng đất, “có ruộng cùng cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặc,….”. Lần đầu tiên người dân được nắm trong tay tài sản do mình tạo ra. Điểm tiến bộ của phong trào còn thể hiện: đây là cuộc khởi nghĩa có cương lĩnh đầy đủ và là đỉnh cao của cuộc chiến tranh nông dân thời phong kiến.
Tuy nhiên Thái Bình Thiên Quốc cũng có hạn chế:
Mặc dù thực hiện hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, song đó là vì cuộc sống đấu tranh cho sự tồn tại của bản thân nó, chứ không phải vì giai cấp lãnh đạo thay mặt cho một lực lượng sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới. Cách mạng nổ ra trong giai đoạn lịch sử phức tạp: bọn đế quốc đang xâm nhập và xâu xé mạnh mẽ thị trường Trung Quốc, bọn phong kiến nhu nhược từng bước đầu hàng. Xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: phong kiến với nông dân, nhân dân với đế quốc.
Những người lãnh đạo phong trào hy vọng xây dựng một xã hội lý tưởng, nhưng trong điều kiện lịch sử xã hội bấy giờ chỉ là không tưởng.
Nguyên nhân thất bại của phong trào:
Điểm khác biệt nữa trong con đường giải phóng dân tộc của cách mạng Trung Quốc là sự tồn tại của hai giai cấp lãnh đạo: tư sản và vô sản, hai giai cấp lãnh đạo xuyên suốt, hai chính Đảng của hai giai cấp ra đời gần như là cùng thời gian ( Quốc dân Đảng năm 1919, Đảng Cộng sản ra đời năm 1921). Đặc biệt, hai giai cấp này cùng song song tồn tại, có vai trò lãnh đạo và ảnh hưởng ngang nhau, cục diện này diễn ra khi giai cấp vô sản hoàn toàn thắng thế và thay mặt cho quyền lợi dân tộc (năm 1949). Còn ở các nước khác như Ấn Độ hay Việt Nam thì khác hẳn, một lực lượng sẽ tụt lại phía sau khi lực lượng kia tiến lên. Ở Ấn Độ, Đảng Cộng sản có vai trò rất mờ nhạt và hòa vào sự đấu tranh của Đảng Quốc đại. Ở Việt Nam, giai cấp tư sản mà thay mặt là Việt Nam Quốc dân Đảng đã không còn vai trò và bị thất bại, trong khi đó thì Đảng Cộng sản cũng ra đời đúng lúc và đảm nhận sứ mệnh lịch sử dẫn dắt dân tộc giành thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng, giành độc lập tự do.
Như vậy, ở mỗi quốc gia khác nhau có những đặc điểm khác nhau trong tiến trình thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc riêng biệt. Điều đó do ảnh hưởng của yếu tố lịch sử và thời đại, cũng như nguyên nhân khách quan và chủ quan hay nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của quốc gia đó quy định. Không có một mô hình nào làm kiểu mẫu để áp đặt các dân tộc khác (trong thời đại lúc bấy giờ con đường cách mạng vô sản đang phát triển rầm rộ nhưng không phải đất nước nào cũng đi theo Cách mạng Mười). Tóm lại, con đường đi đến độc lập của các dân tộc không giống nhau. Mỗi dân tộc đều có hướng lựa chọn thích hợp cho mình để đi đến đích cuối cùng là độc lập dân tộc, giành lại quyền dân chủ dân tộc.






KẾT LUẬN
Trải qua hơn một thế kỷ đấu tranh chống bọn phong kiến phản động và bọn thực dân xâm lược, nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi vẻ vang và đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội xã hội chủ nghĩa bằng cuộc nội chiến cách mạng năm 1949. Suốt tiến trình lịch sử đó, cách mạng Trung Quốc luôn thể hiển những bước thăng trầm của mình, trong mỗi phong trào luôn mang yếu tố thành công nhưng do sự sa đọa của giai cấp lãnh đạo khi giành được chính quyền hay do sự phản bội của nhà nước phong kiến trung ương (Thái bình thiên quốc) nên phong trào dần đi đến riệu rã và lần lượt thất bại. Điều đó, nó thể hiện sự yếu kém trong giai cấp lãnh đạo cả về năng lực cũng như sự lạc hậu về hệ tư tưởng đương thời dẫn đến các phong trào cứu nước lúc đầu đều đi đến thất bại. Mãi đến khi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, nó mở ra con đường cứu nước mới cho lịch sử dân tộc Trung Quốc nói riêng cũng như toàn thể các dân tộc bị áp bức trên thế giới nói chung trong đó có Việt Nam ta, đó là con đường cách mạng vô sản, con đường đưa giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động bị áp bức bóc lột bước lên vũ đài chính trị của thế giới, xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ, văn minh theo đúng nghĩa của nó mà cách mạng Trung Quốc cũng như Việt Nam đã làm được, nó chứng minh lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng thực tiễn và sự kết thừa đúng đắn tinh hoa của cách mạng tháng Mười. Thành công của cách mạng Trung Quốc thật sự xứng đáng là hình ảnh thu nhỏ của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á bởi nó trải qua tất cả các xu hướng cứu nước ở Châu Á từ ý thức hệ phong kiến đến hệ tư tưởng dân chủ tư sản và cuối cùng là con đường cách mạng vô sản – con đường cách mạng phù hợp và đem lại thắng lợi cho cách mạng Trung Hoa, đánh dấu một thời kỳ vàng son trong lịch sử cách mạng dân tộc Trung Quốc.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Tags: bối cảnh chung của các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời, Nét đặc trưng cơ bản của phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỉ XIX, pdf su-lua-chon-con-duong-cuu-nuoc-va-phat-trien-xa-hoi-cua-lich-xu-viet-nam-cuoi-the-ki-xix-dau-the-ki-xx, các chủ trương cải cách của sĩ phu yêu nước từ năm 1840 đến 1949 ở Trung quốc, tiểu luận mẫu về văn hóa duy tân ở việt nam đầu xx., TEEU LUẬN PHONG TRÀO YEU NUOC ĐÂUTHẾ K Ỉ XX, lí giải vì sao phong trào yêu nước chống pháp ở việt nam thế kỉ xix theo khuynh hướng phong kiến vẫn là lựa chọn duy nhất mặc dù hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, Những phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa như thế nào đối với cách mạng Việt Nam?, Tình hình thế giới và trong nước thế kỉ XX tiểu luận, Ý nghĩa của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX, Trình bày các xu hướng cứu nước xuất hiện ở Việt Nam ở cuối thế kỉ 19, Nguyên nhân thất bại của phong trào đấu tranh theo tư tưởng hệ phong kiến, đánh giá về khuynh hướng dân chủ tư sản trong phong trào giải phóng dân tộc ở ân độ, trung quốc trong những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, Phong trào cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX , đầu thế kỷ XX có những đặc điểm gì chung, tại sao xu hướng cứu nước theo khynh hướng dân chủ tư sản được các sĩ phu tiếp thu chứ k phải tầng lớp tư sản dân tộc, han che cua phong trao thai binh thien quoc, ý nghĩa lịch sử của các phong trào yêu nước trước khi có Đảng, các phong trào yêu nước của dân tộc trước khi có đảng khotrithucso.com
Last edited by a moderator:

diemcunhang

New Member

Download Tiểu luận Đặc điểm xu hướng phát triển của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Trung Quốc miễn phí





MỤC LỤC
 
Bài tập: Qua các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á. Anh chị hãy lựa chọn một phong trào giải phóng dân tộc tiêu biểu. Giải thích lý do vì sao lựa chọn phong trào đó?
MỞ BÀI
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ 1
1. Thế giới 1
2. Trong nước 2
II. ĐẶC ĐIỂM XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX Ở TRUNG QUỐC 5
1. Xu hướng đấu tranh mang ý thức hệ phong kiến thể hiện tính dân tộc sâu sắc 5
2. Phong trào đấu tranh chống đế quốc thực dân và phong kiến theo khuynh hướng tư sản, tiến bộ nhưng không thành công 8
3. Phong trào độc lập dân tộc dân chủ của giai cấp tư sản – cách mạng Tân Hợi (1911), một cuộc cách mạng tư sản không triệt để 10
4. Phong trào Ngũ Tứ - bước phát triển mới của cách mạng Trung Quốc, đánh dấu cách mạng chuyển từ giai đoạn dân chủ cũ sang giai đoạn dân chủ mới 12
5. Đánh giá con đường cứu nước ở Trung Quốc từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1919 13
III. CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐÚNG ĐẮN DẪN ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC (1919 – 1949) – CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN 14
1. Nhân tố quyết định đến việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản 14
2. Quá trình đấu tranh giành quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản Trung Quốc trước sự đối trọng với Quốc dân Đảng 15
3. Ý nghĩa việc thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Sự toàn thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc 19
4. Con đường cứu nước ở Trung Quốc mang đặc điểm tiêu biểu trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á 20
KẾT LUẬN
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

một xã hội lý tưởng, nhưng trong điều kiện lịch sử xã hội bấy giờ chỉ là không tưởng.
Nguyên nhân thất bại của phong trào:
Nguyên nhân khách quan: sự đàn áp của thế lực phản động phong kiến trong nước cấu kết với bọn đế quốc bên ngoài. Yếu tố thời đại không phù hợp khi chế độ phong kiến suy tàn thì chiến tranh nông dân không đủ sức giải quyết nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong thời kỳ này; lật đổ phong kiến, đánh đuổi đế quốc (lúc này Trung Quốc là nước chịu sự xâu xé của nhiều liên minh đế quốc).
Nguyên nhân chủ quan: lực lượng lãnh đạo là trí thức nông dân còn mang nhiều yếu tố phong kiến: hẹp hòi, tự ti, bảo thủ,…Không có một giai cấp tiên tiến lãnh đạo phong trào, giai cấp nông dân có khả năng lật đổ phong kiến nhưng khi đẩy cách mạng đến đỉnh cao thì quay lại con đường cũ, quay về chế độ phong kiến, các lãnh tụ phong trào sống xa hoa, trụy lạc, bè cánh, chia rẽ,. Phong trào thiếu tính tổ chức (chiếm lĩnh đất đai mà không biết cai trị), nội bộ lủng củng, mâu thuẫn với nhau (do tranh giành quyền lực đã chia bè phái sâu sắc), làm mất lòng quần chúng nhân dân (tư lợi riêng) do muốn tiêu hủy hết truyền thống dân tộc.
Tính chất của phong trào Thái Bình Thiên Quốc, đây không phải là cuộc chiến tranh mang tính chất tôn giáo, vì nó chỉ thông qua hình thức tôn giáo để tổ chức. Đây cũng không phải là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, vì lực lượng tham gia chủ yếu là nông dân không thay mặt cho một cách sản xuất mới. Về thực chất, Thái Bình Thiên Quốc là phong trào khởi nghĩa nông dân với quy mô rộng lớn, mang một màu sắc của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ sau này.
Phong trào Thái Bình Thiên Quốc thất bại nhưng đã để lại một bài học sâu sắc, đã chứng tỏ rằng nông dân không những là lực lượng quan trọng chống phong kiến mà còn là lực lượng nồng cốt chống ngoại xâm, có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình cách mạng dân chủ Trung Quốc.
Phong trào khởi nghĩa thu hút nhiều và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia và thực hiện nhiều chính sách tiến bộ. Phong trào đã tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến cũng như đập tan ý tưởng thống trị trực tiếp của các nước tư bản Âu, Mỹ ở Trung Quốc.
Mặc dù đây là cuộc khởi nghĩa nông dân thuần túy nhưng chưa có đường lối tiến bộ để giải quyết các nhiệm vụ thòi đại đặt ra. Cuộc cách mạng này đã chỉ rõ; con đường cứu nước chống phong kiến, đế quốc không thể là con đường đấu tranh đơn độc của nông dân, mang tính chất bình quân chủ nghĩa. Đồng thời, cũng chứng minh tỏ, giai cấp nông dân cũng không đủ sức lãnh đạo cách mạng, càng không thể tự giải phóng được đất nước Trung Quốc ra khỏi ách nô dịch của đế quốc và phong kiến trong thời đại khi mà chủ nghĩa đế quốc thực dân đang lên mạnh mẽ.
b. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn
Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn hay còn gọi là khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn; có nghĩa nôm na là phong trào xã hội công bằng và hòa hợp.
Cuộc đấu tranh Nghĩa Hòa Đoàn bắt nguồn từ vùng Sơn Đông, đồng thời đây cũng là cuộc khởi nghĩa nông dân nhằm chống lại những thế lực nước ngoài trong các lĩnh vực giao thương, chính trị, văn hóa và công nghệ. Cuộc khởi nghĩa kéo dài trong 3 năm (1898 – 1901).
Phong trào đã lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia và tấn công vào sự thống trị của các nước đế quốc. Phong trào lan rộng đến cả Thiên Tân và Bắc Kinh, khống chế cả triều đình Mãn Thanh. Buộc nhà Thanh hợp tác với nghĩa quân để chống lại bọn đế quốc. Tuy nhiên, bọn triều đình đứng đầu là Từ Hi thái hậu bất lực và mặt khác lại hợp tác với bọn đế quốc bên ngoài. Liên quân 8 nước đế quốc (Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nga, Nhật, Ý và Áo-Hung) tập trung trên 20.000 quân, hợp lực chống lại phong trào Nghĩa Hòa Đoàn. Sự kiện đó đã dẫn đến việc triều đình Mãn Thanh kí kết hiệp ước đầu hàng Tân Sửu (1901), đã thực sự làm cho Trung Quốc mất chủ quyền và trở thành nước nửa phong kiến nửa thuộc địa.
Phong trào nông dân Nghĩa Hòa Đoàn là phong trào nông dân lớn nhất vào những năm cuối cùng của thế kỷ XIX ở Trung Quốc. Mặc dù phong trào đã thất bại nhưng nó đã thể hiện được sức mạnh của nhân dân. Khẳng định được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời phong trào còn thể hiện tính dân tộc sâu sắc. Cuộc khởi nghĩa cũng góp phần ngăn cản sự xâm lược của các nước phương Tây vào Trung Quốc.
Tóm lại, từ khi đế quốc xâm nhập vào Trung Quốc cho đến cuối thế kỷ XIX, tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm của quần chúng nhân dân với mức độ ngày càng mạnh mẽ và sôi sục ý chí tinh thần chống phong kiến và ngoại xâm, đồng thời họ cũng thấy được hai nhiệm vụ cần kíp của cách mạng (đả phá phong kiến, đánh đuổi đế quốc). Tuy nhiên, do thời đại lịch sử và hạn chế giai cấp nên không đủ sức lãnh đạo, thực hiện mục tiêu cách mạng nên dẫn đến thất bại. Như vậy, cuộc đấu tranh mang ý thức hệ phong kiến trong thời kỳ này thật sự đã không còn phù hợp, không còn vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp cứu vãn nền độc lập cho đất nước. Do đó đòi hỏi một ý thức tiến bộ hơn để lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh của nhân dân.
2. Phong trào đấu tranh chống đế quốc thực dân và phong kiến theo khuynh hướng tư sản, tiến bộ nhưng không thành công
Sau sự thất bại của con đường cứu nước phong kiến, tình hình Trung Quốc ngày càng phức tạp hơn. Mâu thuẫn giữa nhân dân với bọn đế quốc ngày càng trở nên căng thẳng. Cũng từ đó, xã hội Trung Quốc bắt đầu xuất hiện một trào lưu tư tưởng mới đòi hỏi phải canh tân đất nước nhằm xây dựng Trung Quốc thành một quốc gia độc lập và giàu mạnh. Chính tư tưởng đó đã nổi lên một khuynh hướng cứu nước mới, đó là khuynh hướng tư sản. ra đời dựa trên nền tảng của hệ tư tưởng tư sản và sự xuất hiện của giai cấp tư sản dân tộc mà tinh hoa nhất là tầng lớp tiểu tư sản. Đại diện cho tầng lớp này là Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu,...Những người lãnh đạo chủ yếu là các sĩ phu phong kiến. Họ là những trí thức phong kiến, tiếp thu hệ tư tưởng tư sản phương Tây.
Hình thức đấu tranh của Duy tân Mậu Tuất chủ yếu là vận động để tiến hành cải cách một số lĩnh vực như kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục.
Các lãnh tụ phong trào cũng đã chủ trì xuất bản được một số tờ báo như: Thời Vụ, Quốc Văn. Các tờ báo đều có nội dung tích cực tuyên truyền học thuyết chính trị xã hội của giai cấp tư sản phương Tây, lên án ách thống trị của giai cấp phong kiến, đề xướng nhân quyền và chủ trương thi hành nền quân chủ lập hiến theo mô hình Nhật Bản, thúc đẩy phong trào Duy Tân phát triển.
Nhưng cuối cùng những tư tưởng tiến bộ, những chính sách cải cách không thể tiếp tục được, bởi nhiều nguyên nhân tác động.
Thứ nhất, sự mâu thuẫn giữa phái Duy Tân và phái thủ cựu ngày càng gay gắt. Phong trào biến pháp từ khi mới ra đời đã vấp phải sự tẩy chay, phản đối và cản trở của lực lượng bảo thủ, đứng đầu là Từ Hi Thái Hậu.
Thứ hai, do tính thỏa hiệp và y
Bạn cho mình link tải tài liệu này với, mình Thank bạn nhiều
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Môn đại cương 0
D Vận dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào bài vai trò, đặc điểm và các nhân Luận văn Sư phạm 0
D Nghiên cứu so sánh đặc điểm vi học và thành phần hóa học của 3 mẫu rễ cây bá bệnh hướng tới xây dựng Y dược 0
B Đặc điểm định hướng giá trị nghề nghiệp của công nhân lao động phổ thông tại Công ty TNHH Hoàn Mỹ Tâm lý học đại cương 0
B Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 - 2002 đặc điểm và khuynh hướng Lịch sử Thế giới 0
N Nghiên cứu đặc điểm sinh địa hóa vùng đất tại Ba Vì (Hà Nội) và Hướng Hóa (Quảng Trị) đối với sự phá Môn đại cương 0
U Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền và định hướng phát triển hệ thống pháp luật Việt Na Luận văn Luật 0
W [Free] Đặc điểm nguồn khách và phương hướng, biện pháp nhằm thu hút khách du lịch tại chi nhánh OSC Luận văn Kinh tế 0
D [Free] Nội dung, nhiệm vụ, đặc điểm, những hướng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Luận văn Kinh tế 0
B Kinh tế thị trường - Những đặc trưng đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Luận văn Kinh tế 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top