tinahanaivy

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là một truyền thống vô cùng quý báu, là bài học lịch sử vô giá trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thắm nhuần được truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã tiếp thu, vận dụng và phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, từng bước đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách lớn, giàng thắng lợi hoàn toàn, thống nhất nước nhà và tiến lên xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như ngày hôm nay. Đoàn kết quốc tế đã trở thành một phương châm hành động và nó cũng là một trong những nhân tố cơ bản, có tính quyết định bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng nước nhà, góp phần làm nên những mốc son chói lọi, những trang sử hào hùng trong lịch sử dân tộc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991, cương lĩnh đã tổng kết năm bài học của cách mạng nước ta, trong đó có bài học “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế”.
Tập hợp lực lượng cho bất kỳ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nào cũng có hai bình diện: quốc gia và quốc tế. Nếu tranh thủ được sự ủng hộ, liên hiệp hành động của các lực lượng quốc tế, thì sức mạnh của dân tộc sẽ được tăng lên gấp bội. Do vây, song song với chủ trương tập hợp sức mạnh dân tộc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm tới mặt trận quốc tế tập hợp lực lượng, tranh thủ mở rộng đoàn kết và ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Nếu đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của dân tộc thì đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh cho các dân tộc
Vì vậy từ rất sớm xhủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: “Cách mạng An Nam cũng là một phận trong cách mệnh thế giới. Ai là cách mệnh thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.
Đảng ta luôn nhận thức và thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng trong nước với phong trào cách mạng và lực lượng tiến bộ trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong cương lĩnh chính trị năm 1930 và cương lĩnh năm 1991, Đảng ta luôn quan tâm nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại một nhiệm vụ chiến lược.
Và cũng nhờ vào truyền thống quý báu đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân ta tiêu diệt, làm tan rã và xóa bỏ toàn bộ bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi cuối cùng, thắng lợi này đã mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.-giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chiến công lớn của thế kỷ XX, Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, là một thiên anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Góp phần vào thắng lợi trường kỳ đó, có nhiều yếu tố và Đoàn kết quốc tế cũng là một trong những nguyên nhân cực kỳ quan trọng dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
Với tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tui quyết định chọn đề tài “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)”
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan đến đề tài “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)” có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây:
- Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học công phu của tập thể tác giả là các nhà ngoại giao, các chuyên gia hàng đầu về quan hệ quốc tế ở nước ta. Cuốn sách làm sống lại những sự kiện đối ngoại chủ yếu của Đảng, nhà nước ta và ngoại giao nhân dân trong nữa cuối của thế kỷ XX
- Liên Bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân, Hà Nội-1998, do tác giả ILYA V. GAIDUK. Cuốn sách đã nêu bật lên mối quan hệ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đi sâu vào nghiên cứu những hoạt động của Liên Xô trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
- Quan hệ Việt Nam -Trung Quốc những sự kiện 1961-1970, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nôi, 2006, tác giả là TS. Nguyễn Đình Liêm. Đây là một tập “tư liệu lịch sử” đã sơ bộ được hệ thống hóa một cách khoa học về mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1961-1970
- Hồ Chí Minh chiến sĩ cách mạng quốc tế, Nhà xuất bản quân đội nhân dân Hà Nội, 2000 của hai tác giả Phan Ngọc Liên và Trịnh Vương Hồng. Trong cuốn sách này các tác giả đã tổng hợp tất cả những hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử, những chính sách ngoại giao hết sức mềm dẻo của Bác Hồ.
Thế nhưng các tác giả này nghiên cứu ở một góc độ khác nhau, chủ yếu là thiên về lĩnh vực ngoại giao.
Trên cơ sở những tài liệu này và một số tài liệu đáng tin cậy khác, ở đây tui xin đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ thể những hoạt động đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của cả quá trình cách mạng Việt Nam và nó cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới ngày nay. Xuyên suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, cũng như trong quá trình đổi mới Đoàn kết quốc tế cùng với đoàn kết dân tộc đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam, đất nước Việt Nam vượt qua nhiều thử thách, khó khăn đi đến thành công như ngày hôm nay. Với phạm vi là một đề tài luận văn tốt nghiệp, tui chỉ đề cập đến những hoạt động đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975. Từ đó rút ra ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm thiết thực để vận dụng những thành tựu đó vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài: “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)”, tui xác định cần đạt được các mục đích, nhiệm vụ sau đây:
Mục đích
- Góp phần khẳng định giá trị của đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam.
- Làm rõ vai trò, tầm quan trọng của Đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam (1954-1975)
- Rút ra ý nghĩa, bài học kinh nghiệm cho hoạt động Đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam (1954-1975)
- Mặc khác, nghiên cứu hoàn thành đề tài này giúp tui làm quen được với việc nghiên cứu khoa học, cũng như trang bị cho tui thêm về mặt kiến thức và có thể sử dụng luận văn này làm tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
Nhiệm vụ
- Phân tích những lý luận chung và những cơ sở hình thành tư tưởng Đoàn kết quốc tế của Đảng ta
- Hệ thống và đi sâu vào làm rõ những hoạt động Đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975, một trong những nguyên nhân góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước.
- Đánh giá, nhận xét những hoạt động Đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam (1954-1975)
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích yêu cầu đề ra, trong quá trình nghiên cứu tui sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp logic
- Phương pháp phân tích- tổng hợp
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có ba chương:
- Chương 1: Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động đoàn kết quốc tế của Đảng ta
- Chương 2: Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954-1975)
- Chương 3: Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm







Phần nội dung
Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về đoàn kết quốc tế của Đảng ta
1.1. lý luận chung về đoàn kết quốc tế
1.1.1. Đoàn kết quốc tế là gì?
Trong Từ điển Tiếng Việt do trung tâm từ điển học và nhà xuất bản giáo dục ấn hành năm 1994 và sau đó là các từ điển khác đều đưa ra khái niệm đoàn kết là: “kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì mục đích chung” [25, tr.9]
Còn đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh tức là đoàn kết tất cả các dân tộc trong một quốc gia, kể cả sống ở trong nước hay ở nước ngoài miễn là người Việt Nam thì không được phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai,…không phân biệt về chính trị, tôn giáo…Tất cả phải đoàn kết vì một mục tiêu chung là độc lập, tự do cho dân tộc, cho đất nước.
Vậy đoàn kết quốc tế là liên kết, tập hợp tất cả các dân tộc, các nước các trên thế giới thành một khối thống nhất. Đó là chúng ta hiểu đoàn kết quốc tế theo nghĩa chung nhất.
Còn nếu xét theo cấp độ mục tiêu thì chúng ta có thể chia đoàn kết quốc tế ra làm hai loại: thống trị và chống lại sự thống trị.
Về thống trị đó là mục tiêu của các nước đế quốc lớn, có sức mạnh về kinh tế chính trị lẫn quân sự, các nước này luôn có tham vọng làm bá chủ thế giới, muốn bành trướng thế và lực của mình nên chúng tìm cách cấu kết lại với nhau để áp bức, bóc lột các nước yếu hơn mình. Chẳng hạn như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý…Và chính vì thế chúng đã cùng nhau thành lập nhiều tổ chức quân sự hùng mạnh như: SEATO, NATO…
Để chống lại sự thống trị tàn bạo của các nước đế quốc hùng mạnh đó, thì các nước bị áp bức, bóc lột họ đã tự giác ngộ được một chân lý là muốn thoát giải phóng mình thì không có con đường nào khác là tất cả họ phải đoàn kết lại thành một hệ thống - tạo nên sức mạnh tổng hợp chống lại các nước đế quốc, vì tất cả các dân tộc ở các nước này dù màu da, tôn giáo, chính trị có khác nhau nhưng ở họ lại có chung một kẻ thù lớn đó là chủ nghĩa đế quốc, và đằng sau sự phục tùng vô điều kiện đó, ở họ đang sục sôi một nỗi căm phẫn to lớn chờ cơ hội bùng cháy, tất cả họ đều khao khát có được tự do. Điều kiện đó đã đưa họ lại gần nhau, liên kết chặt chẽ với nhau thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh ngang tầm và đối đầu lại các nước đế quốc. Và vào lúc ấy, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thành công và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thắng lợi này đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân và chứng minh lí luận cách mạng vô sản của Lênin là hoàn toàn đúng. Đồng thời nó cũng mở đường cho chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa phát triển.
Vào giữa thế kỷ XIX, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có lý luận tiên phong chỉ đường. Chủ nghĩa Mác ra đời, khẳng định quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư bản, nhường bước cho xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa; đồng thời chỉ rõ sừ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản và nêu lên khẩu hiệu chiến lược: Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại! Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa và đã căn bản hoàn thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách áp bức thực dân ở khắp các nước châu Á, Phi và Mỹ latinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: Một khu vực gồm các nước công nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây và khu vực kia bao gồm các nước thuộc địa, thường được là phương Đông. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa là làm thế nào để được giải phóng. Thế giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân, trở thành một điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là với phong trào cách mạng ở các nước chính quốc.
Sang thế kỷ thứ XX, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra dồn dập, báo trước bước chuyển biến trong tình hình quốc tế, cuộc xung đột tranh giành quyền lợi giữa các nước đế quốc đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ápganixtan, Inđônêxia,....Bão táp cách mạng với “Phương Đông thức tỉnh” là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này. Trong bối cảnh ấy, Lênin phân tích tình hình cụ thể,tiếp tục phát triển chủ nghĩa trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình, đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Thực tiễn chứng minh lý luận của Lênin là đúng bằng thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Người. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối với phong tào cách mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919, Lênin cùng các nhà cách mạng chân chính ở các nước thành lập Quốc tế cộng sản; Đồng thời phát triển khẩu hiệu chiến lược của Mác thành: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại! [25, tr.42]
Như vậy đoàn kết quốc tế có nhiều xu hướng khác nhau, nhưng ở đây đoàn kết quốc tế mà chúng tui muốn đề cập đến đó chính là sự đoàn kết giữa các nước thuộc địa, các nước bị áp bức, bóc lột và với tất cả các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới để chống lại chủ nghĩa đế quốc.
1.1.2. Tính tất yếu của đoàn kết quốc tế
Đoàn kết, hợp tác quốc tế giữa các nước là một vấn đề tất yếu lịch sử
Liên minh, hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc là một hiện tượng lịch sử - xã hội phát triển có quy luật. Nội dung, tính chất và hình thức liên minh, hợp tác mang dấu ấn thời đại và giai cấp rõ rệt, giữ vị trí trung tâm của thời đại. Xu thế phát triển của lịch sử xã hội loài người là các nước, các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, có quan hệ ngày càng sâu rộng. Xu thế đó bắt nguồn từ những tiền đề, điều kiện khách quan.
Nền kinh tế thế giới ngày nay phát triển vượt khỏi khuôn khổ quốc gia, phá vỡ hàng rào dân tộc, mở rộng quan hệ quốc tế.
Chủ nghĩa tư bản ra đời, sản xuất hàng hoá và công nghiệp phát triển, chuyên môn hoá ngày càng sâu, đòi hỏi sự hợp tác, trao đổi. Nhiều phương tiện giao thông và thông tin liên lạc hiện đại như hàng hải, hàng không, điện tín, điện báo... mà một thời chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc độc quyền sử dụng làm công cụ đi chinh phục, xâm lược các nước, ngày nay đã và đang trở thành phương tiện chung của các dân tộc để thực hiện mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển. Nền vǎn minh nhân loại đã phát triển vượt khỏi khuôn khổ một nước, tạo điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế giữa các dân tộc.
Cùng với sự phát triển của cách sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ra đời, hai lực lượng có tính chất quốc tế. Giai cấp vô sản muốn chiến thắng giai cấp tư sản thì phải bằng sức mạnh đoàn kết vô sản toàn thế giới. Mác nêu khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại!”. Trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa bao trùm cả thế giới, Lênin phát triển khẩu hiệu trên thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.
Thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng mười Nga năm 1917 mở ra thời đại- thời đại quá độ từ chủ nghĩa Tư bản lên chủ nghĩa xã hội tren phạm vi toàn thế giới, cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải thực hiện đoàn kết quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Ngay từ những nǎm 20 của thế kỷ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong tư tưởng lý luận của Mác và của Lênin. Người đã dùng hình tượng hai cánh chim và hình tượng con đỉa hai vòi để nêu lên sự kết hợp chặt chẽ giữa hai trào lưu cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định công cuộc giải phóng của các dân tộc bị áp bức “chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình” và “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Đồng thời với việc khẳng định sự nỗ lực “của chính bản thân mình”, Người hết sức coi trọng sự liên minh quốc tế, đoàn kết giữa các dân tộc để đấu tranh cho hoà bình. Người nói: “Vì nền hoà bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức” [25, tr.17].
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga nǎm 1917 mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt đòi hỏi phải thực hiện đoàn kết quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới đang diễn ra mạnh mẽ, tạo bước phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, tǎng cường xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, hình thành một thị trường thế giới, trong đó các hệ thống kinh tế cạnh tranh với nhau. Mặt khác, sự hợp tác kinh tế là một yêu cầu phát triển tất yếu của tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Đúng như Lênin đã chỉ rõ: “Có một sức mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí và sự quyết tâm của bất cứ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó là những quan hệ kinh tế chung của toàn thế giới, chúng bắt buộc họ phải tiếp xúc với chúng ta”.
Thế giới là một thể thống nhất có mâu thuẫn. Các nước vừa độc lập, vừa phụ thuộc lẫn nhau. Các quốc gia dân tộc sống trên hành tinh đều cần duy trì sự sống. Nhưng những mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại; đồng thời lại xuất hiện những mâu thuẫn mới có tính toàn cầu như mâu thuẫn giữa hoà bình và chiến tranh. Các dân tộc đều có quyền độc lập, song không thể sống biệt lập với cộng đồng quốc tế, không thể không có sự hợp tác quốc tế mà giải quyết được những yêu cầu nhiệm vụ phát triển của dân tộc mình. Trong thế giới hiện đại, nhiều vấn đề đặt ra có liên quan đến vận mệnh của các dân tộc. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân huỷ diệt, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Con đường giải quyết có hiệu quả nhất các vấn đề trên là phối hợp sức lực và tài nǎng với ý thức trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc trên thế giới. Không một nước nào, dù đó là nước lớn, có thể tự giải quyết được những vấn đề trên.
Đảng đã biết kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Gắn cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh và ủng hộ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới để đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự của mỗi dân tộc là điều kiện cho sự đoàn kết, hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới 2. Chǎm lo giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính, kết hợp với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn kết hợp và thường xuyên chǎm lo giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các thế hệ người Việt Nam đã tiếp tục đi theo con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính tiến lên tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc tiến lên giác ngộ giai cấp và đoàn kết quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”. Đảng ta hiểu rằng, không có tinh thần yêu nước chân chính thì không thể có lập trường quốc tế đúng đắn. Trái lại, không có lập trường quốc tế đúng đắn thì cũng không thể có được đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn. Đó là hai mặt thống nhất của một đường lối cách mạng. Đảng ta luôn luôn tìm thấy sự thống nhất đó, do đó cách mạng nước ta có được sức mạnh to lớn, vượt qua mọi trở lực, chiến thắng mọi kẻ thù.
2.Tǎng cường đoàn kết quốc tế, đoàn kết ba nước: Việt Nam, Lào, Campuchia, phải cảnh giác và đấu tranh chống mọi âm mưu chia rẽ và thủ đoạn xảo quyệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
Những lúc tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, với sự nhạy cảm chính trị Đảng đã kịp thời có nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ quốc tế, phân tích sâu sắc những mâu thuẫn cơ bản của thời đại, chỉ rõ bản chất và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc, khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa. Điều đó không chỉ nhằm thống nhất quan điểm, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân mà còn cảnh giác trước những chiêu bài "đa đảng, đa nguyên" của các thế lực phản động. Đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội tả, hữu khuynh, chủ nghĩa dân tộc, v.v.. Bản chất của chủ nghĩa dân tộc là đem đối lập dân tộc với quốc tế, đặc điểm dân tộc với quy luật phổ biến. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cơ hội là bạn đường của nhau. Đó là kẻ thù nguy hại nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc lớn, kỳ thị dân tộc, là trở ngại đối với việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, là nguy cơ phá vỡ sự đoàn kết giữa các dân tộc. Chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc lớn, kỳ thị dân tộc là điều kiện quan trọng để quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế. Đó cũng là điều kiện quan trọng để giữ vững, tǎng cường đoàn kết, hợp tác giữa các nước trên thế giới cũng như giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
Lịch sử đấu tranh cách mạng mấy thập kỷ qua chứng tỏ Đảng ta đã làm đúng lời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng luôn giáo dục cho cán bộ, đảng viên và cho quần chúng nhân dân lòng yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản, luôn luôn tǎng cường đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và các nước anh em khác. Đảng ta chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
3. Đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở nâng cao ý chí tự lực, tự cường
Dân tộc ta thường phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh, có khi cùng một lúc với nhiều kẻ thù. Chúng có tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đất nước lại trải qua mấy chục nǎm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề.
Thực tiễn đất nước và đấu tranh cách mạng đòi hỏi phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, đồng thời tǎng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để chiến thắng kẻ thù, giành độc lập, tự do và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
Sự giúp đỡ quốc tế là rất to lớn, quan trọng, là yếu tố không thể thiếu đối với thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Song, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và tǎng cường đoàn kết quốc tế, hợp tác quốc tế là hai mặt thống nhất trong đường lối chiến lược nhất quán của Đảng ta. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng nêu cao tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là “trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thấm nhuần chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; hoà bình xây dựng đất nước theo định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội, “chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực, tự cường phát huy mọi tiềm nǎng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Kinh nghiệm cho thấy độc lập trước hết về đường lối. Khi nào không đề cao tinh thần độc lập, sáng tạo mà rập khuôn, máy móc là khi đó cách mạng gặp khó khǎn, sai lầm, tổn thất. Suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn nêu cao tinh thần sáng tạo trong việc vận dụng những quy luật phổ biến vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Ngày nay, khi thế giới trở nên hết sức đa dạng thì đường lối độc lập tự chủ lại càng cần thiết. Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, càng nổi lên yêu cầu tư duy sáng tạo và độc lập, đồng thời trân trọng tiếp thu những thành tựu về lý luận của các Đảng và các nước khác.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng viết: “phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo” trong việc đề ra đường lối, chính sách đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta, đáp ứng đúng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Thực tế mấy nǎm qua càng khẳng định bài học kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta là khi nào chúng ta độc lập suy nghĩ, xuất phát từ thực tiễn của đất nước và tôn trọng quy luật khách quan trong việc xác định các chủ trương hành động thì lúc đó cách mạng giành được thắng lợi; ngược lại, lúc nào chủ quan duy ý chí hay giáo điều, máy móc sao chép cách làm của nước ngoài thì lúc đó cách mạng gặp tổn thất.
Nắm vững tính cách mạng và khoa học, thuộc tính của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn đất nước và tình hình thế giới, Đảng đề ra đường lối, phương pháp cách mạng thích hợp, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiến lên. Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và đế quốc Mỹ, thế giới không ít người chỉ thấy sức mạnh của Mỹ, sợ Mỹ, có người khuyên ta phải trường kỳ mai phục ở miền Nam. Đảng ta nhận rõ đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và quân sự phát triển nhất trong phe đế quốc nhưng sức mạnh của Mỹ không phải là vô hạn, Mỹ đang đứng trước nhiều mâu thuẫn. Nắm vững chiến lược tiến công, cuối cùng nhân dân ta đã đánh bại đế quốc Mỹ và chế độ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt nguồn từ đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đề ra, thật sự có ý nghĩa bước ngoặt, tiêu biểu cho tư duy độc lập, sáng tạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mới là một biểu tượng mới của sự hội tụ trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân ta. Cuộc sống ngày càng chứng tỏ quan điểm tư tưởng, đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng. “Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta hiện nay đang đặt ra biết bao nhiêu vấn đề phải giải đáp, không ai có thể thay thế chúng ta để làm nhiệm vụ đó”.
Chỉ có những người cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam vừa làm, vừa tìm tòi, suy nghĩ bằng đầu óc của mình mới có thể vạch đường lối, lựa chọn hình thức, bước đi thích hợp đưa sự nghiệp đổi mới tới đích. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường không phải là đóng cửa khép kín, biệt lập với bên ngoài, là từ chối sự giúp đỡ nhau của các nước theo nguyên tắc các bên cùng có lợi, mà phải “mở cửa”, mở rộng quan hệ với các nước. Ngày nay, không một nước nào có thể tách biệt khỏi các quan hệ quốc tế mà có thể phát triển bình thường và không một nền kinh tế nước nào có thể tự túc, tự cấp được hoàn toàn như trong xã hội chậm phát triển trước đây. Gắn liền việc xây dựng kinh tế trong nước với thiết lập và ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài là một hiện tượng tất yếu khách quan. Mỗi dân tộc phải tự mình vươn lên, phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, với tinh thần tự lực, tự cường. Ra sức khai thác tiềm nǎng trong nước đi đôi với hợp tác, trao đổi kinh tế với các nước thì mới phát triển được.
Đưa nền kinh tế nước ta tham gia vào kinh tế thế giới, tranh thủ sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ và tính quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới để đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước là con đường làm cho dân giàu, nước mạnh.
Tranh thủ sự giúp đỡ nhiều mặt của quốc tế, của các nước xã hội chủ nghĩa nhưng không trông chờ, ỷ lại. Trông chờ, ỷ lại hoàn toàn xa lạ với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Sự giúp đỡ quốc tế là rất to lớn, quý báu và không thể thiếu, nhưng điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là sự phát triển bên trong của nền kinh tế nước ta, là từ thực tế của nước ta phải biết cách đi lên cho đúng và vững chắc, là phải xuất phát từ những đặc điểm kinh tế, xã hội nước ta mà tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Sự giúp đỡ cho ta của các nước bạn cũng chỉ có hạn, cǎn bản là ta phải tự lực cánh sinh, cố gắng sản xuất.
Phải bằng tiềm nǎng lao động và trí tuệ của nhân dân ta- công nhân, nông dân, trí thức - dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải bằng tài nguyên của đất nước, cùng với sự hợp tác giúp đỡ nhiều mặt của quốc tế, chúng ta sẽ xây dựng được một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Lịch sử đấu tranh 60 nǎm qua chứng tỏ Đảng ta là Đảng của chủ nghĩa quốc tế cao cả của giai cấp công nhân trên cả nhận thức lẫn hành động. Đảng và nhân dân ta không chỉ tranh thủ sự ủng hộ to lớn của quốc tế mà còn có những đóng góp xứng đáng vào các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới và xây dựng sự đoàn kết hợp tác giữa các nước.
Bằng kinh nghiệm lịch sử, với chính sách đối ngoại rộng mở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu rõ: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, tǎng cường đoàn kết hợp tác quốc tế trong điều kiện mới.


Phần kết luận

Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, vấn đề đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, được coi là một bộ phận hợp thành đường lối chống Mỹ cứu nước; hoạt động đối ngoại, mặt trận ngoại giao có tầm quan trọng chiến lược, góp phần đánh thắng kẻ thù. Phương châm ngoại giao của Đảng là: Đoàn kết với bất kỳ người nào có thể đoàn kết được, tranh thủ bất kỳ người nào có thể tranh thủ được, tập hợp bất kỳ người nào có thể tập hợp được, nhằm phân hóa kẻ thù và cô lập chúng, đồng thời để có thêm nhiều bạn bè ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc ta.
Việc Đảng đề ra chủ trương “thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà” [27, tr.99] là một sách lược mềm dẻo, thích ứng với tình hình trong nước và quốc tế, phù hợp với nhu cầu tập hợp mọi lực lượng, mọi người Việt Nam yêu nước vào mặt trận chống Mỹ. Đồng thời gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ trên thế giới, thực hiện phương châm “đánh lui địch từng bước, đánh đổ từng bộ phận” tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Thực tế cho thấy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với đường lối ngoại giao đúng dắn, Đảng đã xây dựng một mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lựợc, bao gồm các nước xã hội chủ nghĩa, các nước độc lập dân tộc, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới, trong đó có cả một bộ phận nhân dân Mỹ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc của dân tộc ta, do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn là thắng lợi của sức mạnh chính trị-tinh thần của cả dân tộc, là sự kế tục truyền thống kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, một dân tộc có hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa phát huy thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là thành quả của hai mươi năm bền gan chiến đấu của nhân dân hai miền Nam Bắc.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

qnhu21601

New Member
Luận văn Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)

Download Luận văn Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975) miễn phí





Việt Nam dân chủ cộng hòa là thành viên của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các nước xã hội chủ nghĩa nhất là Trung Quốc và Liên Xô đã có sự ủng hộ chi viện to lớn đối với công cuộc đấu tranh giải phóng của ta. Nhằm tiếp tục phát huy mối quan hệ đồng minh chiến lược trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước anh em, Nghị quyết trung ương lần thứ tám, tháng 8/1955 nhấn mạnh: “điều cốt yếu là phải ra sức củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa các nước xã hội chủ nghĩa, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đở ngày càng cao của thế giới để củng cố miền Bắc và đẩy mạnh đấu tranh của nhân dân miền Nam”



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

uống Đông Nam Á… Các chủ trương trên đây có tác dụng khoét sâu mâu thuẫn giữa các nước nước đế quốc, phân hóa hàng ngũ đối phương và cô lập chính sách can thiệp, xâm lược của Mỹ. Từ năm 1963, Tổng thống Pháp De Gaulle nêu đề nghị trung lập hóa miền Nam Việt Nam và năm 1964, kêu gọi chấm dứt mọi sự can thiệp của nước ngoài vào miền Nam Việt Nam. Năm 1963, Thượng nghị sĩ Mỹ M. Mansfield đề nghị thúc đẩy trung lập ở Đông Nam Á.
Mặt trận dân tộc giải phóng cử nhiều đoàn đại biểu thăm các nước anh em, bè bạn, dự nhiều hội nghị quốc tế, đưa tiếng nói của nhân dân miền Nam đang chiến đấu đến các diễn đàn, các cơ quan thông tấn báo chí quốc tế. Việt Nam dân chủ cộng hòa phối hợp với mặt trận vận động các nước, các tổ chức quốc tê công nhận mặt trận là thay mặt chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Các nước anh em, bè bạn lần lượt công nhận và lập quan hệ chính thức với mặt trận. Mặt trận lần lượt lập cơ quan thay mặt bên cạnh ủy ban đoàn kết Á-Phi tại Cairo, cơ quan thay mặt tại Tiệp Khắc, Trung Quốc, Cuba, Liên Xô và một số nước khác. Mặt trận cũng lập phòng thông tin ở một số nước Tây Bắc Âu. Ngày 20/12/1963, kỷ niệm ba mươi năm thành lập mặt trận, có 321 tổ chức thuộc nhiều xu hướng chính trị khac nhau ở 42 nước tổ chức ngày đoàn kết với mặt trận dân tộc giải phóng và nhân dân miền Nam Việt Nam. [3, tr.187]
Trong điều kiện Miền Bắc đi vào kế hoạch phát triển kinh tế dài hạn, miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng chống “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, việc đoàn kết với Liên Xô và Trung Quốc, tranh thủ sự giúp đở vật chất lẫn tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của hoạt động đoàn kết quốc tế Việt Nam.
Việc tranh thủ sự giúp đở về vật chất để xây dựng miền Bắc tương đối thuận lợi. Các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện các cam kết và thỏa thuận giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch năm năm lần thức nhất và tăng cường tiềm lực quốc phòng. Nhờ những thắng lợi trong xây dựng kinh tế, miền Bắc với vai trò hậu phương lớn, có điều kiện để chi viện cuộc chiến đấu ở miền Nam và chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ ra miền Bắc.
Nhiệm vụ tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam có phần phức tạp hơn. Các nước lo ngại chiến tranh ở miền Nam có thể tăng cường, mở rộng, không có lợi cho hòa bình và an ninh chung. Liên Xô lo ngại chiến tranh cách mạng ở Việt Nam sẽ cản trở hòa hoãn Xô-Mỹ.
Để giải tỏ những băn khoăn đó, chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo Đảng và nhà nước Việt Nam trình bày với các nhà lãnh đạo các nước anh em rằng trước sau Việt Nam vẫn chủ trương thi hành hiệp định Geneva, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình; hoạt động vũ trang có tính chất tự vệ và hỗ trợ đấu tranh chính trị không để chiến tranh lan rộng.
Mâu thuẫn Xô – Trung bắt đầu bộc lộ trong nội bộ tại hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa tại Matxcơva tháng 11/1957. Đến 1960, mâu thuẫn đó bộc lộ công khai. Trung Quốc công bố văn kiện “Chủ nghĩa Lênin muôn năm” và Liên Xô cắt viện trợ cho Trung Quốc, rút chuyên gia về nước. Trước tình hình đó, Đảng lao động Việt Nam bày tỏ mong muốn chân thành hai đảng và hai nước đoàn kết. Tháng 2/1963, Bộ chính trị Đảng lao động Việt Nam ra tuyên bố đề nghị các đảng anh em chấm dứt công kích lẫn nhau trên đài phát thanh, báo chí và đề nghị họp các đảng cộng sản để chấm dứt sự bất hòa trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát hiện những biểu hiện của bất đồng giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch thường xuyên nhắc nhở Bộ ngoại giao cần đặc biệt quan tâm thực hiện chủ trương giữ gìn đoàn kết giữa Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc. Người có những chỉ thị cụ thể, uốn nắn kịp thời, phê bình và xử lý nghiêm khắc những vi phạm của cán bộ ngoại giao đối với vấn đề đối ngoại có tính nguyên tắc quan trọng hàng đầu này để cán bộ đối ngoại giữ được quan hệ tốt đẹp với cả hai nước. Đồng thời bằng sự hiểu biết sâu sắc về hai nước bạn lớn của Việt Nam, duy trì được quan hệ chân thành với các nhà lãnh đạo của cả hai nước, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý thành công và tài tình nhiều tình huống ngoại giao tế nhị và phức tạp trong quan hệ với hai nước lớn xã hội chủ nghĩa.
Tháng 12/1963, hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III quyết định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng Việt Nam và một số vấn đề quốc tế. Hội nghị chủ trương trong khi đánh lâu dài, phải biết kiềm chế và thắng địch trong “cuộc chiến tranh đặc biệt”. Về đường lối quốc tế của Đảng, Hội nghị cho rằng cách mạng thế giới ở thế tiến công và tiến công liên tục vào chủ nghĩa đế quốc. Đi đôi với công cuộc đấu tranh đó, cần tăng cường đoàn kết quốc tế, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đảng và nhân dân ta phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. [3, tr189]
Khi kết thúc phần thảo luận tại hội nghị về tình hình quốc tế và nhiệm vụ đoàn kết quốc tế của Đảng Lao Động Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Mục đích của ta là vì đoàn kết, vì đoàn kết mà phải tranh đấu, tranh đấu để đi đến đoàn kết chứ không nói xấu ai ...Phải làm sao trong Đảng và trong nhân dân giữ được lòng yêu mến và biết ơn các nước bạn anh em,…đó là “thiên kinh nghĩa địa”, đồng thời không nên coi chuyện bất đồng là chuyện lạ” [13, tr.134].
Sau nghị quyếtt Trung ương lần thứ chín, quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô có nhiều khó khăn. Việt Nam buộc phải rút lưu học sinh học tập các nghành khoa học xã hội ở Liên Xô về nước. Dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước Việt Nam đã khôn khéo giữ cho quan hệ Việt –Xô bớt xấu thêm. Đến tháng 10/1964, Liên Xô thay đổi lãnh đạo cấp cao nhất. Ban lãnh đạo Liên Xô điều chỉnh chính sách, quan hệ Việt – Xô trở lại hữu nghị.
Với quyết tâm duy trì đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và bằng phương pháp hiệp thương, thuyết phục khéo léo, có lý có, tình Đảng Lao động Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh đã giữ vững được quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam với Liên Xô, Trung quốc và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đở và viện trợ quan trọng của hai nước lớn xã hội chủ nghĩa.
Củng cố và phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của đường lối đoàn kết quốc tế của nhà nước ta trong giai đoạn này.
Việt Nam dân chủ cộng hòa là thành viên của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các nước xã hội chủ nghĩa nhất là Trung Quốc và Liên Xô đã có sự ủng hộ chi viện to lớn đối với công cuộc đấu tranh giải phóng của ta. Nhằm tiếp t...
mình xin bản doc ạ
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
V Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Lịch sử Việt Nam 0
O Quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng Văn hóa, Xã hội 0
V Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975) Văn hóa, Xã hội 0
R Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò đoàn kết quốc tế, liên hệ với tình hình Việt Nam trong thời kỳ hội n Tài liệu chưa phân loại 2
L Tiểu luận Những vấn đế cơ bản trong chiến lược đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh Tài liệu chưa phân loại 0
P Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện Tài liệu chưa phân loại 2
H Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và quốc tế Tài liệu chưa phân loại 2
D tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng ta, liên hệ bản thân Y dược 0
D dàn ý nghị luận về tinh thần đoàn kết của học sinh hiện nay Văn học 0
R Hoàn thiện kế toán tiêu thụ & xác định kết quả kinh doanh tại Công ty Thương mại Đoàn Kết Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top