Download Tiểu luận Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn miễn phí





MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
I. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN DO HÀNH VI GÂY THIỆT HẠI
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. 3
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
đã thành niên. 3
2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
chưa thành niên. 4
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
mất năng lực hành vi dân sự. 7
II. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN DO HÀNH VI GÂY THIỆT HẠI
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN. 8
1. Bồi thường thiệt hại do hành vi của người đã thành niên gây ra. 8
2. Bồi thường thiệt hại do hành vi của người chưa thành niên gây ra. 12
3. Bồi thường thiệt hại do hành vi của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự gây ra. 14
III.NHẬN XÉT CHUNG 15
1. Những quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn về
năng lực bồi thường thiệt hại 15
2. Một số đề xuất cá nhân 18
KẾT LUẬN 19
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

vai trò quản lý của cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức hay cơ quan tiến hành tố tụng. Vì thế, trong các trường hợp này, trách nhiệm BTTH trước hết thuộc về cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức hay cơ quan tiến hành tố tụng.
Nếu người từ đủ 18 tuổi trở lên là người làm công, học nghề gây ra thiệt hại thì trách nhiệm BTTH trường hợp này cũng khác. Đó là: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.”. Điều này được quy định tại Điều 622 BLDS năm 2005.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên.
Người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi, không có hay có một phần năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, không giống như người đã thành niên, khi gây ra thiệt hại, cha mẹ sẽ là người đứng ra cùng họ chịu trách nhiệm BTTH. Luật dân sự Việt Nam chia nhóm này thành hai nhóm nhỏ hơn là người dưới 15 tuổi và người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Sở dĩ, có sự phân chia như vậy là do với điều kiện thực tế ở nước ta, những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có khả năng lao động để tạo ra thu nhập hay có tài sản riêng. Vì vậy, cách thức BTTH giữa hai nhóm là khác nhau. Điều này được quy định tại Khoản 2 Điều 606 BLDS năm 2005 như sau:
- Đối với những người dưới 15 tuổi: “Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Ðiều 621 của Bộ luật này…”.
Như vậy, cũng xuất phát từ quan điểm cha mẹ sẽ đứng ra cùng con chưa thành niên BTTH thì trường hợp con chưa đủ 15 tuổi (tức là chưa có năng lực hành vi dân sự) gây ra thiệt hại thì cha mẹ sẽ là người bồi thường toàn bộ thiệt hại; và chỉ khi tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì mới lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Nếu cha, mẹ không còn hay mất năng lực hành vi dân sự thì theo quy định của pháp luật, người dưới 15 tuổi buộc phải có người giám hộ. Tuy nhiên, khi có thiệt hại do hành vi của người dưới 15 tuổi gây ra, người giám hộ sẽ đứng lên cùng người được giám hộ BTTH nhưng dùng tài sản của người được giám hộ trước, nếu thiếu, người giám hộ phải có nghĩa vụ bổ sung.
Về cơ bản, trách nhiệm BTTH trường hợp này trước hết thuộc về cha, mẹ vì cha, mệ là người trực tiếp trông nom, quản lý và chăm sóc con cái. Do đó, khi người dưới 15 tuổi không trực tiếp chịu sự quản lý của cha, mẹ mà chịu sự quản lý của một cơ quan, tổ chức khác như trường học thì việc BTTH được xác định theo Khoản 1 và Khoản 3 Điều 621 BLDS năm 2005 như sau:
“1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Ðiều này, nếu trường học… chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi… phải bồi thường.”
Lỗi của trường học xét đến ở đây là lỗi trong quản lý, giáo dục, họ đã không thực hiện tốt chức năng của họ, do quản lý không tốt, người dưới 15 tuổi đã gây ra thiệt hại cho người khác. Điều này cũng có nghĩa, nếu cơ quan, tổ chức quản lý chứng minh được họ không có lỗi thì cha, mẹ, người giám hộ phải BTTH.
- Đối với những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: “… Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”.
Ở Việt Nam, do những điều kiện và hoàn cảnh riêng, một số người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động, từ tạo thu nhập cho chính mình hay một số khác đã có tài sản riêng. Vì thế, khi những người thuộc nhóm này gây ra thiệt hại thì cha mẹ sẽ cùng họ BTTH nhưng việc BTTH khác với những người dưới 15 tuổi ở chỗ họ phải bồi thường bằng tài sản của mình; và chỉ khi không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của cha mẹ. Điều này có nghĩa là những người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, có một phần năng lực hành vi dân sự thì họ trước hết phải là người chịu trách nhiệm về hành vi trái pháp luật của mình.
Nếu cha, mẹ người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không còn hay mất năng lực hành vi dân sự mà có người giám hộ thì lúc này người giám hộ cũng đóng vai trò tương tự cha, mẹ là cùng với được giám hộ BTTH theo quy định trên. Tuy nhiên, theo nguyên tắc tại Khoản 2 Điều 67 BLDS năm 2005, người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi không còn cha, mẹ hay cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự thì không buộc phải có người giám hộ. Và theo nguyên tắc chung, người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi phải chịu trách nhiệm dân sự, do vậy nếu có hành vi gây thiệt hại thì lấy tài sản của họ để bồi thường.
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người mất năng lực hành vi dân sự.
Người mất năng lực hành vi dân sự là người không có khả năng nhận thức, kiểm soát và điều chỉnh hành vi của mình (ví dụ như bị bệnh tâm thần), vì thế, khi tham gia giao dịch dân sự, pháp luật quy định người giám hộ của họ có thể xác lập thay. Người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 58 BLDS năm 2005 là người được giám hộ.
Khoản 3 Điều 606 BLDS năm 2005 quy định: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hay không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.” Như vậy, hành vi được thực hiện bởi người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại cho người khác thì người giám hộ đương nhiên, người giám hộ được cử (đối với những người phải có người giám hộ quy định tại Khoản 2 Điều 58 BLDS năm 2005) sẽ dùng tài sản của người được giám hộ để BTTH. Người giám hộ cũng có nghĩa vụ bổ sung nhưng nếu họ chứng minh được rằng hộ không có lỗi trong việc giám hộ họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong trường hợp người được giám hộ không có khả năng để bồi thường và người giám hộ không có lỗi thì sẽ không có người BTTH. Lúc này, thiệt hại sẽ chỉ đ
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top