kelbin_lei

New Member
Đề tài Xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do 2011

Download Đề tài Xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do 2011 miễn phí





Nếu ngân hàng nhà nước cho nhập khẩu vàng chính thức, một lượng ngoại tệ cũng sẽ được chi ra từ hệ thống ngân hàng để thanh toán tiền nhập khẩu vàng. Có thể nói rằng trong bối cảnh giá vàng tăng và nhiều nhà đầu tư đang muốn mua vàng, việc nhập khẩu vàng bằng con đường chính thức hay không chính thức cũng đều tác động lên cung cầu ngoại tệ và gây áp lực lên tỷ giá.
Đây cũng chính là thế “tiến thoái lưỡng nan” mà ngân hàng nhà nước luôn luôn đối diện khi xử lý vấn đề nhập khẩu vàng. Tuy nhiên, việc nhập khẩu vàng chính thức vẫn được xem là giải pháp tích cực hơn, vì Nhà nước sẽ đạt được nhiều mục tiêu khác nhau như
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

àng nhập khẩu, cả về khối lượng và giá cả. Hàng năm, nước ta nhập khoảng trên 60 tấn vàng, đáp ứng trên 90% nhu cầu trong nước, nhưng vàng không ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Mặc dù một bộ phận người dân vẫn sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán mua bán nhà đất, cất trữ vàng làm tài sản hộ thân. Trên thực tế, tỷ trọng vàng sử dụng trong thanh toán cũng như giao dịch gửi và vay tại các ngân hàng là rất nhỏ so với M2, tổng vốn huy động và cho vay tại các tổ chức tín dụng.
Trước những diễn biến của thị trường vàng trong nước (giá vàng trong nước cao hơn giá vàng trên thị trường thế giới trên 6%). Ngày 11/11/2009, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời cấp phép nhập khẩu vàng cho các đơn vị kinh doanh vàng nhằm tạo nguồn cung ổn định cho thị trường, góp phần ổn định giá vàng trong nước.
Tiếp đó, ngày 30/12/2009, Văn phòng Chính phủ đã ban hành văn bản số 369/TB-VPCP thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng.
  Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu không được tổ chức và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức. Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày 30/12/2009, mọi hoạt động liên quan đến kinh doanh sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước phải chấm dứt hoạt động.
 Do hoạt động kinh doanh trên sàn vàng hay còn gọi là kinh doanh vàng trên tài khoản đã cho thấy một số yếu tố tiềm ẩn có thể gây bất ổn cho kinh tế - xã hội.
 Do đây là loại hình kinh doanh có rủi ro cao, không phải là hoạt động sản xuất để tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Hơn nữa, đến nay vẫn chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh này.
  Do đó, Chính phủ cũng giao, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát lại tất cả các quy định hiện hành về quản lý vàng để trình Chính phủ ban hành một quy định đầy đủ về quản lý kinh doanh vàng theo hướng Nhà nước tập trung, thống nhất quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
Ngoài ra, ngày 11/01/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng đã có văn bản số 258/NHNN-CSTT gửi các Ngân hàng thương mại và chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương yêu cầu ngừng cho vay để đầu tư kinh doanh trên sàn vàng.
1.1.2. Mối quan hệ giữa thị trường vàng và các thị trường đầu tư khác.
a.Thị trường chứng khoán.
Chứng khoán và vàng là hai kênh đầu tư có tính chất thay thế cho nhau, nghĩa là khi có tiền, nhà đầu tư có thể chọn đầu tư vào chứng khoán, hay vàng hay cả hai để sinh lời. Về lý thuyết, luồng vốn đầu tư sẽ dịch chuyển từ kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời thấp sang kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời cao hơn. Trên phương diện này, khi chứng khoán lên, sẽ tạo nhiều cơ hội cho mọi người kiếm lợi nhuận từ thị trường chứng khoán và giảm đầu tư vào vàng.
Tuy nhiên, khi nhận định như trên cần lưu ý 2 điều:
Không bao giờ chứng khoán và vàng là vật thay thế hoàn toàn cho nhau, nghĩa là dù chứng khoán có hấp dẫn như thế nào thì vẫn có nhiều nhà đầu tư quan tâm tới đầu tư vàng, đơn giản vì họ quen với hoạt động kinh doanh này hơn.
Vàng và chứng khoán đều là những cấu phần của một thị trường tài chính. Hoạt động nhộn nhịp đầu tư trong một cấu phần, có thể tạo cho nhà đầu tư sự phấn khích cần thiết để đầu tư vào cả cấu phần kia.
Bên cạnh đó, đầu tư vào chứng khoán là rất rủi ro, vì khi doanh nghiệp phá sản, số chứng khoán đang nắm giữ có thể mất giá trị. Đầu tư vào vàng có thể lãi, có thể lỗ, nhưng không bao giờ mất trắng vì vàng có giá trị nội tại của nó. Một nhà đầu tư khôn ngoan luôn chia sẻ rủi ro bằng cách trong khi đầu tư chứng khoán thì vẫn đầu tư vàng.
Tóm lại, khi chứng khoán lên, có thể một số nhà đầu tư sẽ dồn vốn đầu tư sang kênh này, nhưng điều này không hẳn dẫn tới sự trầm lắng của thị trường vàng.
b.Thị trường tiền tệ và dầu mỏ.
Sau thế chiến năm 1945, Mỹ đứng đầu thế giới về tỷ lệ dự trữ vàng (3/4 trữ lượng vàng của thế giới được dự trữ tại các nhà băng Mỹ).
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1971, hầu hết các nước đều bán vàng mua đồng đôla Mỹ để tăng dự trữ ngoại tệ, cũng là điều chỉnh cân bằng thương mại giữa các nước. Thời kỳ này, đồng USD mặc nhiên được coi như một đồng tiền chung trong giao dịch thương mại quốc tế. Thời kỳ này, giá vàng dao động quanh ngưỡng 35USD/ounce, giá dầu ở mức 3 USD/ thùng.
Năm 1971, Mỹ ngừng bán vàng ra thị trường thế giới. Để đáp lại, các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) buộc phải bán lượng USD đang dự trữ đề mua vàng trên thị trường thế giới. Hệ quả là đã đẩy giá dầu tăng lên gấp chục lần lên mức 40USD/thùng và vàng là 850 USD/ounce (tính theo thời giá hiện nay là khoảng 2500 USD/ounce). Đây được đánh giá là một cú sốc lớn đối với nền tài chính thế giới, là hệ quả của việc gỡ bỏ hệ thống bản vị vàng ra khỏi đồng USD trong tháng 8/1971 của tổng thống Mỹ Richard M Nixon.
Chúng ta có thể giải thích mối quan hệ này một cách đơn giản như sau:
Dầu là nguồn đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Bất cứ sự biến động của giá dầu mỏ cũng tác động dây chuyền lên toàn bộ nền kinh tế thế giới. Vì thế để giữ vứng nền kinh tế phát triển ổn định, các nước có nền kinh tế lớn như Nga, Mỹ... có xu hướng xây dựng các kho dự trữ dầu mỏ và tăng cường dự trữ vàng. Bởi lẽ đây là hai loại hàng hóa không bị mất giá trị.
Tuy nhiên, dầu mỏ dưới vai trò lớn hơn hàng hóa tích trữ, khi giá dầu mỏ tăng tất yếu dẫn đến hệ quả tiền USD giảm giá trị, và các nước càng có xu hướng nhập vàng về tích trữ, do đó nhu cầu vàng trên thế giới sẽ tăng và kéo theo sự tăng giá của vàng.
Năm 2006 cũng là năm đánh dấu mức kỷ lục của giá vàng, giá dầu và một lần nữa minh chứng cho thấy sự đồng hành của giá vàng và giá dầu. Giá dầu đạt mức kỷ lục 78,40 USD/thùng vào ngày 13/7/2006. Mức kỷ lục này cao hơn 39% so với mức giá cao nhất trong năm 2004 là 56,37 USD/thùng (ngày 26/10/2004) và trên 10% so với mức cao nhất năm 2005 là 70,85 USD/thùng vào ngày 27/8/2005.
Các kỷ lục về giá dầu tại thời điểm đó và những nguyên nhân của nó cũng không nằm ngoài những nguyên nhân cố hữu như cầu tăng, nguồn cung hạn chế do những xung đột về chính trị ở các nước sản xuất dầu mỏ, dự trữ năng lượng tại Mỹ… Vào đầu năm 2006, giá vàng thế giới từ mức 517 USD/ounce đã tăng liên tục và đến ngày 12/5 đã đạt mức kỷ lục là 732 USD/ounce, để rồi giảm liền một mạch xuống còn 543 USD/ounce chỉ trong vòng 1 tháng.
Nhưng ngay sau đó, giá vàng lại tăng lại gần 140 USD/ounce lên mức 675 USD/ounce vào nửa cuối tháng 7 - 2006. Một biến động chưa từng có trong lịch sử giá vàng khoảng 1/4 thế kỷ trở lại đây. Giá vàng thế giới trong phiên giao dịch cuối cùng của năm 2006 ở mức 635 USD/ounce, tăng gần 23% so với thời điểm đầu năm.
Nguyên nhân diễn biến thất thường của giá vàng và đạt được kỷ lục cao chủ yếu là do xu hướng mất giá của đồng USD. Trong năm 2008, thị trường tài chính ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top