kuhals

New Member
Đề tài Kiềm chế lạm phát và chống lạm phát ở nước ta

Download Đề tài Kiềm chế lạm phát và chống lạm phát ở nước ta miễn phí





Sau 5 năm đi vào cơchếthịtrường, Việt Nam đã thành công đáng kể
trong việc giảm dần chỉsốlạm phát. Nếu năm 1991 chỉsốlạm phát ởmức
67%, thì năm 1992 chỉsố đó là 17%, năm 1993 là 5, 2%, năm 1994 là 14,
4%, và ba tháng đầu năm 1995 là trên 6%. Từthực tế đó chúng ta có thểrút
ra là, trong nền kinh tếthịtrường lạm phát là một hiện tượng kinh tế-xã hội
đương nhiên. Nhưchúng ta đã biết, lạm phát đã từng xảy ra rất sớm trong
lịch sửnhân loại. Trong xã hội hiện đại, nhất là sau chiến tranh thếgiới lần
thứhai, lạm phát đã trởthành hiện tượng kinh tếmang tính phổbiến trên
toàn thếgiới, từcác nước nghèo đến các nước giầu có nền kinh tếphát triển
cao.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

kinh doang tiền tệ và vốn, không biết đầu tư vào ngành có hiệu
quả, chính sách tài chính chỉ tính đến việc tận thu và phát hành tiền để chi
mà không biết nuôi dưỡng các nguồn thu, vay của dân để chi v. v..Những
chính sách này trên thực tế đã làm cho các nguồn thu ngày càng cạn kiệt,
ngân sách ngày càng thiếu hụt và lạm phát gia tăng là một điều không tránh
khỏi.
Thứ ba, nguyên nhân lạm phát do những điều kiện khách quan gây ra
như chiến tranh, thiên tai...
Những đặc trưng trên đây cho thấy lạm phát ở Việt Nam thời kỳ này
khác hẳn với các nước phương Tây.
II. LẠM PHÁT NƯỚC TA NHỮNG NĂM 1990-1995
1 - Đổi Mới Cơ Chế, chính sách.
Những kết quả bước của quá trình đổi mới cơ chế, chính sách giá theo
đường lối đại hội VI và đại hội VII của đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam
được thể hiện trước hết và về cơ bản là cơ chế và chính sách giá đã chuyển
biến theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, thông qua hệ
thống hai giá chuyển mạnh sang cơ chế một giá kinh doanh phù hợp với quan
hệ cung cầu và thị trường, bắt đầu từ giá mua nông sản, thuỷ sản, giá bán lẻ
hàng tiêu dùng và dịch vụ... Và đến nay hầu hết các loại vật tư chủ yếu ; mở
rộng quyền tự chủ về giá, đi đôi với đổi mới cơ chế kế hoạch hoá, tự chủ về vốn
tự chịu trách nhiệm về lời lỗ trong sản xuất kinh doanh.
15
Việc điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước đã có sự đồng bộ trên các
mặt tài chính, tiền tệ và diều hoà thị trường giá cả, bội chi ngân sách và nhu
cầu tín dụng vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế được bù đắp chủ yếu bằng
nguồn vay dân; ngân hàng đã có dự trữ đủ sức can thiệp hai thi trường vàng
và đô la không để xảy ra đột biến giá, lạm phát đã được kìm chế và giảm
thấp là kết quả nổi bật trong năm 1992.
Giá cả thị trường có xu hướng đi vào ổ định. Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá
dịch vụ trong những tháng đầu năm 1992 tăng 5-6% tháng. Từ tháng 3-1992
tốc độ tăng giá liên tục giảm, mức tăng giá bình quân hàng thàng từ 3, 5%trong
quí I, xuống 0, 75% trong quí II và xuống còn 0, 2% trong quí III, mức tăng giá
hàng tháng trong quí IV là 1, 05% tuy cao hơn quí II và III nhưng thấp hơn nhiều
so với mức tăng giá trong quí IV các năm trước. Mức tăng giá cả năm là 17, 49%
thấp hơn mức Quốc hội đề ra từ đầu năm (30-40%).
Sở dĩ đạt được sự ổn định như trên là do kết quả tổng hợp của nhiều
nhân tố, nhưng trước hết là chính sách quản lý chặt chẽ khối lượng tiền tệ
tăng thêm, mở rộng việc phát hành các tín phiếu, kỳ phiếu để thu hút mạnh
số tiền nhàn rỗi trong dân, cải tiến một bước công tác điều hoà lưu thông tiền
tệ, xoá dần bao cấp qua ngân sách và tín dụng, chấn chỉnh công tác quản lý
ngoại hối với sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng và thị trường vàng và đo
la, đồng thời trong lĩnh vực giá đã tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản
lý, gắn liền với quá trình chống lạm phát, được thực thi trong cuộc sống bằng các
giải pháp tình thế và cả các giải pháp cơ bản lâu dài.
Từ tháng ba năm 1989 lần đầu tiên sau nhiều năm lạm phát nghiêm
trọng trong việc thực hiện các giải pháp chống lạm phát cao đã chú trọng đến
khâu trọng tâm cần xử lý là chính sách tiền tệ, tín dụng. Do đó cũng là lần
đầu tiên áp dụng chính sách lãi suất phù hợp với qui luật của cơ chế thị
trường: đưa lãi suất huy động tiết kiệm lên cao hơn tốc độ trượt giá. Lãi suất
huy động và cho vay các tổ chức kinh tế cũng được dịch gần với lãi suất huy
16
động tiết kiệm và chỉ số trượt giá thi trường, rút ngắn kỳ hạn 3 năm (ngắn)
và 5 năm (dài) về tiền gửi tiết kiệm xuống không kỳ hạn và kỳ hạn ba tháng.
Giải pháp tình thế này đã có tác dụng quan trọng chặn đứng lạm phát cao.
Mức lạm phát bình quân tháng từ 14, 2% năm1988 giảm xuống còn 2, 5%
năm1989.
Mức lạm phát được kìm chế trong cả sáu tháng đầu năm 90, đã đẩy lùi
nguy cơ khủng hoảng kinh tế- chính trị- xã hội, tạo điều kiện cải thiện quan
hệ kinh tế với các tổ chức tài chíng thế giới và góp phần ổn định chính trị xã
hội tạo được lòng tin trong nước và trên thế giới về tính đúng đắn về cuộc
đôỉ mới ở nước ta.
Tuy nhiên trong việc áp dụng biện pháp tình thế nâng lãi suất tiết kiệm
và điều hành chính sách lãi suất nói chung cũng đã làm nảy sinh những mâu
thuẫn mới, ngoài tác dụng tích cực có gây một số tiêu cực cho nền kinh tế,
đó cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tái lạm phát cao( so
với năm 1989 và đầu 1990) từ quí III/1990 cho đến đầu năm 1992( tốc độ
trượt giá hàng hoá hàng tháng bình quân quí III/1990 là 4, 5%, quí IV/1990
là 7, 6% và bình quân tháng của năm 1991 là 4, 5%.
Lãi suất ngân hàng không được điều chỉnh kịp thời, tương ứng với tình
hình lạm phát theo đúng tính chất tình thế của công cụ này, nên có lúc đã trở
thành quá cao so với chỉ số trượt giá. Đã kích thích tăng tiền gửi quá mức,
thu hẹp đầu tư cho sản xuất và lưu thông gây khó khăn cho kinh tế quốc
doanh trong quá trình phục hồi và sắp xếp lại. Nhưng từ quí III/1990 lãi suất
trở lên thấp xa so với tốc đọ trượt giá, sinh ra bao cấp trở lại cho kinh tế quốc
doanh và phát sinh nhu cầu vốn giả tạo từ cơ sở.
Việc áp dụng biện pháp tình thế sử dụng chính sách lãi suất ngân hàng
để chống lạm cao trong năm 1989 và kéo dài đến quí I/1990 đã làm cơ chế
ngân hàng bị méo mó trái qui luật, lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy
động tiền tiết kiệm. Tình trạng này tuy có được khắc phục dần trong năm
17
1991 nhưng đã làm cho ngân hàng càng cho vay càng lỗ, bù lỗ ngân sách cho
ngân hàng và ngân hàng không chuyển sang kinh doanh được. Tình trạng
bao cấp trong tín dụng trong kinh tế quốc doanh ( lãi suất tín dụng thấp hơn
tốc độ trượt giá ) đã che giấu thực trạng lỗ của khu vực này, hình thành nhu
cầu giả tạo về vốn. Việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả nợ khó đòi có lúc đã
lên đến 20% dư nợ tín dụng của ngân hàng nhà nước. Do vậy chủ trương
“chống bao cấp qua giá đồng bộ với chống bao cấp qua vốn” đã không được
kiên trì và thực thi có hiệu quả.
Việc áp dụng biện pháp tình thế nâng lãi suất tiết kiệm không đồng bộ
với thi hành các biện pháp cơ bản chấn chỉnh kinh tế quốc doanh đổi mới
chính sách tài chính tiền tệ thay đổi chính sách tiền lương, sắp xếp đi lao động,
trước hết là biên chế khu vực hành chính sự nghiệp, các chính sách bảo hiểm
chuyển ngân hàng sang kinh doanh thực sự, làm lành mạnh thị trường vốn... Cho
nên những nguyên nhân tiềm tàng của lạm phát vẫn còn tồn tại.
Từ những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực thi các giải
pháp chống lạm phát mang tính tình thế của thời kỳ 1989-9991 mà năm 1992
trong việc điều hành nền kinh tế bằng các biện pháp vĩ mô của nhà nước đã
có sự đồng bộ trên các mặt tài chính- tiền tệ vàđiều hoà thị trường giá cả, bội
chi ngân sách và nhu cầu tín dụng vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế được
bù đắp chủ yếu b...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top