itsme7i

New Member
Download Tiểu luận Vấn đề chuyển giá ở Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi các quan hệ kinh tế được thiết lập đa dạng, có sự liên kết, phối hợp giữa các chủ thể kinh doanh, thì việc xác định lợi ích kinh tế đã vượt ra ngoài phạm vi của một chủ thể riêng lẻ, mà được tính trong lợi ích chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn được đặt ra với các chủ thể kinh doanh. Chuyển giá được xem là một lời giải cho bài toán lợi ích mà ở đó nhà đầu tư không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Đơn giản vì phương cách này giúp họ giảm tổng nghĩa vụ thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia tăng.
Trong xu thế mở rộng cửa chào đón các tập đoàn kinh tế quốc tế, phát huy nội lực với các công ty cha - mẹ - anh - chị - em.., thì chuyển giá sẽ là công cụ dễ được các chủ thể kinh doanh sử dụng nhằm thay đổi những nghĩa vụ thuế phải thực hiện với nhà nước. Sự mới mẻ và chứa đựng những hấp dẫn về lợi ích kinh tế của chuyển giá là điều được các nhà quản lý lưu tâm, được các chủ thể kinh doanh, người hoạch định chiến lược tài chính của doanh nghiệp lên chương trình hành động cho mình. Tuy nhiên, thực chất của chuyển giá là một mánh khóe định giá chuyển giao tinh vi của các công ty đa quốc gia nhằm giảm số lợi tức thực tế phải kê khai với cơ quan thuế nước chủ nhà để tối thiểu hóa số thuế phải nộp. Về sâu xa, đây là một hành vi trái phép gây tổn thất lớn cho ngân sách Nhà nước và về lâu dài sẽ gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Do đó, việc dung hòa lợi ích cá nhân các doanh ngiệp và lợi ích chung của đất nước đáng được các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh phải suy ngẫm!
1. Khái niệm
1.1 Chuyển giá là gì?
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (MNC) trên toàn cầu
Nguyên tăc cơ bản của hoạt động chuyển giá là so sánh mặt bằng thuế ở các nước của công ty con, sau đó điều chuyển thu nhập từ nơi có mức thuế cao sang nơi có mức thuế thấp nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Kết quả của việc chuyển giá là tăng chi phí đầu vào, giảm giá thành đầu ra thấp hơn cả giá thị trường, từ đó giảm thu nhập chịu thuế tại các quốc gia có thuế thu nhập doanh nghiệp cao.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
Cho nên, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể có mối quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một chính sách về giá mà ở đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào lợi ích đạt được từ những giao dịch như thế. Chúng ta cần phân biệt điều này với trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để trốn thuế nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận. Trong khi đó nếu giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế sau của việc thanh toán trên và thậm chí họ có thể định giá giao dịch cao.
Biểu hiện cụ thể của hành vi chuyển giá bởi các chủ thể có mối quan hệ liên kết trên là giao kết về giá. Nhưng giao kết về giá chưa đủ để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá. Bởi lẽ nếu giao kết đó chưa thực hiện trên thực tế hay chưa có sự chuyển dịch quyền đối với đối tượng giao dịch thì không có cơ sở để xác định sự chuyển dịch về mặt lợi ích. Như vậy, ta có thể xem chuyển giá hoàn thành khi có sự chuyển giao đối tượng giao dịch cho dù đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán hay chưa.
Giá giao kết là cơ sở để xem xét hành vi chuyển giá. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh giá một giao dịch có chuyển giá hay không khi so sánh giá giao kết với giá thị trường. Nếu giá giao kết không tương ứng với giá thị trường thì có nhiều khả năng để kết luận rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá.
1.2 Phạm vi chuyển giá
Chuyển giá với ý nghĩa chuyển giao giá trị trong quan hệ nội bộ nên hành vi phải được xem xét trong phạm vi giao dịch của các chủ thể liên kết. Điều 9 Công ước mẫu của OECD về định giá chuyển giao ghi nhận “Hai doanh nghiệp được xem là liên kết (associated enterprises)” khi:
i. Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh nghiệp kia một cách trực tiếp hay gián tiếp hay qua trung gian
ii. Hai doanh nghiệp có cùng một hay nhiều người hay những thực thể (entities) khác tham gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp hay gián tiếp hay thông qua trung gian”.
Yếu tố quản lý, điều hành hay góp vốn chính là điều kiện quyết định sự ảnh hưởng, sự giao hòa về mặt lợi ích của các chủ thể này nên cũng là cơ sở để xác định mối quan hệ liên kết. Tính chất của những biểu hiện này không mang tính quyết định. Như thế các doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong cùng một quốc gia hay có thể ở nhiều quốc gia khác nhau. Từ đó, chuyển giá không chỉ diễn ra trong các giao dịch quốc tế mà có thể cả trong những giao dịch quốc nội.
Trên thực tế, chuyển giá thường được quan tâm đánh giá đối với các giao dịch quốc tế hơn do sự khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện rõ hơn. Trong khi đó, do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia nên các nghĩa vụ thuế hình thành từ các giao dịch trong nước ít có sự cách biệt. Vì thế, phần lớn các quốc gia hiện nay thường chỉ quy định về chuyển giá đối với giao dịch quốc tế. Theo đó, giao dịch quốc tế được xác định là giao dịch giữa hai hay nhiều doanh nghiệp liên kết mà trong số đó có đối tượng tham gia là chủ thể không cư trú (non-residents).
Sự khác biệt chính yếu nằm ở sự cách biệt về mức thuế suất thuế TNDN của các quốc gia. Một giá trị lợi nhuận chuyển qua giá từ doanh nghiệp liên kết cư trú tại quốc gia có thuế suất cao sang doanh nghiệp liên kết ở quốc gia có thuế suất thấp. Ngược lại một lượng chi phí tăng lên qua giá mua sẽ làm giảm thu nhập cục bộ ở quốc gia có thuế suất thuế thu nhập cao. Trong hai trường hợp đều cho ra những kết quả tương tự là làm tổng thu nhập sau thuế của toàn bộ nhóm liên kết tăng lên.
Khía cạnh khác, các giao dịch trong nước có thể hưởng lợi từ chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế. Thu nhập sẽ lại dịch chuyển từ doanh nghiệp liên kết không được hưởng ưu đãi hay ưu đãi với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên kết có lợi thế hơn về điều này.
2. Thực trạng
2.1 Các hình thức chuyển giá
2.1.1 Chuyển giá để khai báo thua lỗ:
Khi một doanh nghiệp có kết quả sản xuất kinh doanh thua lỗ liên tục trong nhiều năm, lúc đó có thể xảy ra trường hợp chuyển giá nhằm tính đội chi phí lên để không phát sinh thu nhập chịu thuế. Ví dụ: Coca – Cola khai giá nhập nguyên liệu từ Mỹ quá cao nên lợi nhuận không bù đắp được chi phí bỏ ra, do vậy công ty đã bị thua lỗ liên tiếp trong nhiều năm. Hay công ty mẹ có giao dịch bán buôn máy laptop với chi nhánh tại Việt Nam. Chi nhánh kê khai kết quả kinh doanh bị lỗ do giá vốn cao, phải chịu rủi ro hàng tồn kho và hàng công nghệ được cải tiến rất nhanh chóng. Trên thực tế, chi nhánh nhận đơn đặt hàng và đặt cọc của khách hàng trước khi yêu cầu công ty mẹ xuất sản phẩm, số liệu theo dõi nhập, xuất, tồn laptop tại kho ở mức thông thường, không có chứng từ cho thấy khách hàng đặt hàng nhưng không mua do lỗi mốt. Như vậy, rủi ro mà chi nhánh nêu là không có thực.
2.1.2 Công ty mẹ không trả đầy đủ tiền phí dịch vụ cho các chi nhánh:
Chi nhánh ngoài việc thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh có làm thêm dịch vụ đại lý nhập khẩu và phân phối sản phẩm cho công ty mẹ tại Việt Nam. Việc thực hiện dịch vụ đại lý này không được phản ánh trong phần phân tích chức năng hoạt động của chi nhánh. Trên thực tế làm phát sinh chi phí cho chi nhánh nhưng không được công ty mẹ chi trả phí/hoa hồng đại lý.Hoạt động đại lý này là một chức năng bổ sung mà chi nhánh đã thực hiện, đã bỏ chi phí và chịu rủi ro của ngành kinh doanh dịch vụ đại lý nhưng do quan hệ liên kết nên chi nhánh đã không tính phí hoa hồng để công ty mẹ chi trả.
2.1.3 Định giá đầu vào cao:
Công ty mẹ tại Singapore chịu thuế t
Ngoài ra, các biện pháp cưỡng chế cũng được áp dụng nhằm đảm bảo tuân thủ kê khai đúng đắn các giao dịch liên kết. Trước hết, đó là quy định về quyền của cơ quan thuế được ấn định mức giá sử dụng để kê khai tính thuế hay ấn định thu nhập chịu thuế hay số thuế thu nhập phải nộp.
Trên thực tế, để chống chuyển giá, cần nắm được thông tin giá giao dịch sòng phẳng là bao nhiêu. Thí dụ, chúng ta có thể biết rằng giá nhập linh kiện (chưa thuế) để lắp ráp một chiếc xe hơi tại Việt Nam là 30.000 USD, trong khi một chiếc xe mới tương tự (đã tính công lắp ráp) tại Thái Lan là 10.000 USD. Tuy nhiên làm sao biết được giá sòng phẳng của một cái khung xe hay một cái động cơ là bao nhiêu khi phần lớn các linh kiện đó chỉ được mua bán qua lại giữa các công ty trong cùng tập đoàn với nhau chứ không bán ra thị trường. Hơn nữa, có những tài sản rất khó định giá như công nghệ, uy tín và chi phí nghiên cứu, vì không có những tài sản tương đương để đánh giá. Vì vậy, giải pháp để chống chuyển giá trong tương lai là thu thập thông tin càng nhiều càng tốt về giá giao dịch sòng phẳng cho các loại hàng hoá bị nghi ngờ. Khi có nghi ngờ về giá giao dịch, cơ quan thuế sẽ yêu cầu doanh nghiệp giải trình về sự chênh lệch giá. Nếu doanh nghiệp không có lý do chính đáng, cơ quan thuế có thể định giá lại theo một trong ba phương pháp:
So sánh giá giao dịch với giá của giao dịch tương đương ngoài thị trường (comparative unit pricing).
Nếu không có giá tương đương, cơ quan thuế có thể áp dụng phương pháp ấn định giá mua (cost-plus method) hay ấn định giá bán trên tỷ lệ lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp tương tự (profit mark-down method).
Nếu xuất hiện trường hợp bị đánh thuế hai lần cho cùng doanh nghiệp, thì giải pháp thông thường vẫn là cho phép thuế thu nhập ở nước này được khấu trừ vào thuế thu nhập phải trả ở nước kia. Ngoài ra, để tránh trường hợp khoản bị khấu trừ quá lớn, cơ quan thuế của hai nước nên trao đổi thông tin cho nhau, theo hướng sẽ báo trước một năm để nước kia chuẩn bị.
Trong trường hợp xác định được có hiện tượng chuyển giá cơ quan thuế có thẩm quyền có thể áp dụng các hình phạt thuế đối với doanh nghiệp vi phạm. Hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa ban hành các mức phạt cụ thể nhưng chúng ta có thể áp dụng một số hình phạt đã được áp dụng thành công ở một số nước như khoản phạt có thể đến 100% số thuế bị truy thu trong trường hợp phát hiện chuyển giá nếu đối tượng nộp thuế cố ý không tuân thủ các quy định pháp lý về chuyển giá ở Anh. Đối với Trung Quốc các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bị phát hiện kê khai giảm thu nhập thì sẽ bị phạt đến 3 lần số thuế trốn (5 lần trong trường hợp nghiêm trọng). Thời hiệu truy thu thuế thông thường là 3 năm trở về trước, và từ 5 đến 10 năm đối với những trường hợp trốn thuế lớn gây hậu quả nghiêm trọng. Lãi suất tính lãi đối với số thuế nợ: 0,05%/ngày, tương đương với 20%/năm…
Cuối cùng, tất cả chúng ta cần có một cái nhìn đầy đủ hơn về chuyển giá, về phạm vi tác động của giá thị trường được định ra trong các phương pháp xác định giá để từ đó chuyển các giao dịch liên kết về đúng với bản chất tự nhiên của nó là một giao dịch bình đẳng. Ở đây là một sự bình đẳng theo đúng nghĩa thị trường không vì lợi ích cục bộ của riêng một chủ thể nào. Làm được điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của Nhà nước mà tính đến lợi ích của những chủ thể khác nhằm duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong xã hội có nhiều quan hệ đa chiều như hiện nay. Việt Nam đang kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhiều công ty nước ngoài đã và đang mở chi nhánh hoạt động tại nước ta. Ngược lại, nhiều công ty Việt Nam đã và sẽ mở chi nhánh hoạt động tại nước ngoài. Các doanh nghiệp này lựa chọn giá chuyển giao dựa trên cơ sở nào là vấn đề đáng quan tâm, vì chúng không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi quốc gia .

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top