Brandan

New Member
Download Tiểu luận Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển của bộ tài chính ban hành 1990

Download Tiểu luận Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển của bộ tài chính ban hành 1990 miễn phí





Quyền của người bảo hiểm
- Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận hợp đồng bảo hiểm.
- Yêu cầu bên mua bảo hiểu cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
- Đơn phương đình chỉ hợp đồng bảo hiểm trong một số trường hợp nhất định.
- Từ chối trả tiền cho người thụ hưởng hay từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm đối với những trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hay trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
 
Nghĩa vụ của người bảo hiểm
- Giải thích cho bên mua về các quy tắc, thể lệ, điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm.
- Kịp thời cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hay đơn bảo hiểm cho người được bảo hiểm.
- Chỉ định đại lý giám định tổn thất hay cả đại lý giải quyết bồi thường tại cảng đến. Đại lý này thường là đại lý bảo hiểm.
 
Quyền của người được bảo hiểm
- Lựa chọn công ty bảo hiểm mà mình muốn được bảo hiểm.
- Đơn phương đình chỉ hợp đồng bảo hiểm trong một số trường hợp theo luật định.
- Yêu cầu công ty bảo hiểm trả tiền cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận hợp đồng hay theo quy định pháp luật.
- Yêu cầu từ bỏ hàng.
- Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
 
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

á hay số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm không định giá (Unvalued Policy): là loại hợp đồng khi ký kết người ta không ghi rõ số tiền bảo hiểm hay giá trị bảo hiểm mà chỉ nêu ra nguyên tắc để tính số tiền hay giá trị bảo hiểm: căn cứ vào giá trị hàng hoá ở bến đến vào ngày tàu đến hay ngày tàu đăng ký phải đến hay trị giá hàng hoá lúc xảy ra tổn thất, lúc bồi thường hay lúc chấp nhận bồi thường
Việt Nam: không sử dụng hợp đồng bảo hiểm không định giá
Những thuật ngữ sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm:
Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
- Người bảo hiểm: (insurer, underwriter) là người nhận trách nhiệm về rủi ro, được hưởng phí bảo hiểm và phải bồi thường khi có tổng thất xảy ra.
- Người được bảo hiểm (the insured): là người có lợi ích bảo hiểm (insurable interest), là người bị thiệt hại khi rủi ro xảy ra và được người bảo hiểm bồi thường. Người được bảo hiểm có tên trong hợp đồng bảo hiểm và là người nộp phí bảo hiểm.
- Đối tượng bảo hiểm (subject - matter insured) là tài sản (property)
- Rủi ro được bảo hiểm (risk insured againt) là rủi ro đã thỏa thuận trong hợp đồng, người bảo hiểm chỉ bồi thường những thiệt hại do những rủi ro đã thỏa thuận gây ra mà thôi. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hóa bằng đường biển như tàu mắc cạn, đâm vào nhau, hàng hư hỏng, thiếu hụt, mất trộm......
- Giá trị bảo hiểm: trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển là giá trị của hàng hóa lúc bắt đầu bảo hiểm cộng với phí bảo hiểm và cước phí vận chuyển nơi đến. Như vậy giá trị bảo hiểm có thể bằng giá CIF của hàng hóa.
Tuy nhiên, trong kinh doanh xuất nhập khẩu các thươgn nhân đều mong chờ ở một khoản lãi nhất định, khoản lãi đó cũng là một lợi ích bảo hiểm hợp pháp, khoản lãi này không vượt quá 10% giá trị bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm của hàng hóa được bảo hiểm phải là giá trị do người được bảo hiểm khai báo và được người bảo hiểm thừa nhận. Trách nhiệm của người bảo hiểm chỉ giới hạn trong phạm vi số tiền bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm (premium): là một khoản tiền nhỏ mà người được bảo hiểm phải nộp cho người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổng th6át xảy ra. Mức phí bảo hiểm thường do người bảo hiểm định ra trên cơ sở tính xác xuất xảy ra rủi ro hay trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo số phí thu về để bồi thường và bù đắp các chi phí khác đồng thời có lãi
Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở tỷ lệ phí bảo hiểm
Tỷ lệ phí bảo hiểm là một tỷ lệ phần trăm của số tiền bảo hiểm, tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào loại hàng, cách đóng gói bao bì, phương tiện vận chuyển, tuyến đường ...
Nếu ký hiệu Phí bảo hiểm (I), số tiền bảo hiểm là (A), tỷ lệ phí bảo hiểm ( R) thì công thức tính phí bảo hiểm là I = R x A.
- Hợp đồng bảo hiểm chuyến: HĐBH chuyến là HĐBH một chuyến hàng từ một cảng này đến một cảng khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm này là Đơn bảo hiểm hay Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Người mua bảo hiểm yêu cầu mua bảo hiểm từng chuyến trước khi bảo hiểm có hiệu lực
Ngay sau khi ký hợp đồng mua bán các nhà XNK phải nghĩ ngay đến việc bảo hiểm.
Các chi tiết của lô hàng sẽ được bổ sung sau
- Hợp đồng bảo hiểm bao là HĐBH nhiều chuyến hàng trong một thời gian nhất định thường là một năm. Đây là một loại hợp đồng nguyên tắc mà người bảo hiểm và người được bảo hiểm ký kết vào đầu mỗi năm, theo đó thì người bảo hiểm cam kết sẽ bảo hiểm cho tất cả các lô hàng xuất khẩu trong năm đó của người được bảo hiểm. Trong hợp đồng ghi rõ tên hàng được bảo hiểm, loại tàu chở hàng, cách tính giá trị bảo hiểm của hàng, số tiền bảo hiểm tối đa cho mỗi chuyến hàng và điều kiện bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm và những điểm liên quan khác đã được thỏa thuận giữa 02 bên. (theo khoản 1 - Điều 17 - QTC-1990).
Loại hợp đồng bảo hiểm dùng chung cho nhiều chuyến một năm hay bao cho một hợp đồng mua bán. Trong đó ghi rõ
Tên hàng hóa được bảo hiểm,
Loại tàu chở hàng,
Cách tính giá trị bảo hiểm của hàng,
Số tiền bảo hiểm tối đa cho mỗi chuyến,
Điều kiện bảo hiểm,
Tỷ lệ phí bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm v.v
Ưu điểm của loại hợp đồng này là thủ tục đơn gian , phí bảo hiểm rẻ hơn và hàng sẽ được tự động bảo hiểm cho dù người được bảo hiểm mua bảo hiểm muộn (sau khi tàu đã rời bến) với điều kiện người được bảo hiểm phải thông báo cho người bảo hiểm biết càng sớm càng tốt và thông báo này không được làm chậm quá sau khi tàu bắt đầu dỡ lô hàng đầu tiên tại cảng đến cuối cùng ghi trên đơn bảo hiểm ( theo khoản 2 điều 17 - QTC 1990) .
- Bảo hiểm trùng: Nếu cùng một số hàng mà đem bảo hiểm với nhiều người bảo hiểm và nếu tổng của những số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị bảo hiểm thì trách nhiệm của tất cả những người bảo hiểm cũng chỉ giới hạn ở giá trị bảo hiểm và trách nhiệm của mỗi người bảo hiểm được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm riêng và tổng của những số tiền bảo hiểm. (theo khoản 1 - Điều 16 - QTC-1990)
Nếu trách nhiệm bảo hiểm chưa bắt đầu thì người được bảo hiểm có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm hay giảm bớt số tiền bảo hiểm và đòi hoàn lại phần phí bảo hiểm tương ứng, với điều kiện trong trường hợp huỷ hợp đồng người bảo hiểm có quyền yêu cầu người được bảo hiểm nộp thủ tục phí.
Là trường hợp một tài sản được mua bảo hiểm hai hay nhiều lần cho cùng một lợi ích bảo hiểm và rủi ro. Thí dụ: một người mua nhận được điện của người bán báo hàng đã được gửi đi, nhưng qua bức điện này, không thể biết được người bán đã mua bảo hiểm cho mình hay chưa, vì vậy phải ký hợp đồng bảo hiểm. Đến khi chứng từ giao hàng đến nơi, người mua mới biết người bán đã mua bảo hiểm cho mình. Trường hợp này gọi là bảo hiểm trùng. Cần lưu ý: có trường hợp mua nhiều lần bảo hiểm cho một món hàng, vẫn không phải là bảo hiểm trùng, khi các lần bảo hiểm đó được mua cho những quyền lợi khác nhau. Thí dụ: trong trường hợp bán hàng trả tiền sau, theo điều kiện FOB, người mua đương nhiên mua bảo hiểm cho mình, còn người bán vì có thể lo không thu được tiền hàng, nên đã mua riêng bảo hiểm vì lợi ích cho bản thân mình. Như vậy, hai hợp đồng bảo hiểm đó bảo hiểm cho hai quyền lợi riêng biệt. Nếu bảo hiểm trùng tại cùng một hãng bảo hiểm, có thể hủy một hợp đồng bảo hiểm, nhưng nếu bảo hiểm tại hai hãng khác nhau, sẽ giải quyết bằng cách là mỗi hãng gách chịu 50%. Nếu xảy ra tổn thất, chủ hàng có thể đòi một hãng bồi thường toàn bộ hay đòi mỗi hãng bồi thư
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top