ot_ngot2412

New Member
Download Tiểu luận Tim hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997 và bài học đối với Việt Nam

Download Tiểu luận Tim hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997 và bài học đối với Việt Nam miễn phí





Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiahvà
Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và
đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng
chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một
gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng
Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng
khoánđều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sảncủa các công ty Indonesia,
đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên.
Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán
Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm pháttăng vọt



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

những nhân tố sâu xa, khởi sự của các cuộc
khủng hoảng tài chính. Khi xuất hiện nhưng nhân tố này thì kéo theo sự xuất
hiện của 5 nhân tố: sự tăng lãi suất, sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu, sự sụt
giảm bất ngờ về mức giá, sự tăng tính không chắc chắn, sự hoảng loạn ngân
hàng.
Sự tăng lãi suất đồng nghĩa với việc chi phí của đồng vốn sử dụng sẽ cao
hơn. Nguyên lí quan trọng là các món vay có mức độ rủi ro càng cao thì lãi
suất càng cao. Những cá nhân công tuy với những dự án đầu tư rủi ro nhất
chắc chắn là những người sẵn lòng chịu vay với lãi suất cao nhất. sự tăng lãi
suất làm cho giảm bớt những vụ vay tín dụng có triển vọng tốt, làm tăng
những món vay khó đòi, làm tỉ lệ nợ khó đòi của ngân hàng đó ở mức báo
động. Nếu thông tin này đến tai người gửi sẽ làm cho người gửi ồ ạt rút tiền
khỏi ngân hàng. Sự đổ vỡ của một ngân hàng làm liên luỵ đến các ngân hàng
khác, tức là xảy ra hiệu ứng domino.
Sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu: điều này có thể làm tăng lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức trong thị truờng tài chính và tạo ra một cuộc khủng
hoảng tài chính. Sự sụt giảm đồng nghĩa với giá trị tài sản ròng cũng sụt
giảm theo, nó sẽ ít có khả năng bảo vệ hơn cho người vay, nguy cơ tổn thất
từ các món vay sẽ cao hơn khiến nhà đầu tư giảm bớt ý định cho vay. Ngoài
ra sự sụt giảm nói lên làm tăng ý muốn gây rủi ro đạo đức ở những công ty
đi vay thực hiện những phi vụ rủi ro.
Những sự sụt giảm bất ngờ về mức giá: cũng làm giảm giá trị tài sản ròng
của các công ty. Hiện tượng này còn làm tăng giá trị các món nợ của các
công ty theo hiện vật nhưng không tăng giá trị thực, làm tăng các vấn đề lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Sự tăng tính không chắc chắn: một sự tăng tính không chắc chắn trong thị
trường tài chính, có thể do sự thất bại của một tổ chức tài chính hay phi tài
chính nổi tiếng khiến cho người vay khó phân biệt được đâu là tín dụng có
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 7 -
triển vọng tốt, đâu là xấu, làm cho họ giảm bớt ý định cho vay, đầu tư vào
hoạt động kinh tế tổng hợp.
Sự hoảng loạn ngân hàng: ngân hàng đóng một vai trò quan trọng, phần lớn
nguồn vốn trong nền kinh tế luân chuyển qua hệ thống ngân hàng. Sự hoảng
loạn này làm giảm tổng số các hoạt động trung gian tài chính mà ngân hàng
thực hiện, làm giảm khối lượng vốn cung ứng, dẫn đến việc tăng lãi suất. Và
như đã nói trên sự tăng lãi suất là một trong yếu tố trực tiếp tạo nên khủng
hoảng tài chính.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 8 -
II. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997. Bài học
được rút ra sau cuộc khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu
từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường
chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác
ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những
con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng
hoảng tiền tệ Đông Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng phát triển nhất
bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị
ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan,
Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh
hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua
những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông
Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng
hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các
nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Nguyên nhân
Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà
kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị
đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự
do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập
niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo
vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính
sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô
hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt
ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ
trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn
Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa
quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá
hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt
tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi
vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi
ro
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 9 -
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó
còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông
Á".Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là
do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao
động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức
độ rất nhỏ, hay hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng
trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có
thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi
như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính
ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không đoán cơn khủng hoảng
hay nhìn trước được chiều sâu của nó.
Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và
Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở
nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới
tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra
nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do
hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát
triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của
chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á
bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp
mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ
không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa
chọn nghịch và rủ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top