manhtu.info

New Member
Download Bài đọc - Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc

Download Bài đọc - Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc miễn phí





Một chiều hướng thú vị đã bộc lộ. Trước tiên, đầu tưcủa các doanh nghiệp
trong nước dựa vào vốn tựhuy động quan hệ đồng biến với năng suất vốn biên. Điều
này cho thấy rằng khi đầu tư được kích hoạt chủyếu bởi sựtối đa hoá lợi nhuận, vốn
đầu tưcó xu hướng đi đến những nơi sửdụng hữu hiệu nhất. Đầu tưtrực tiếp nước
ngoài và vốn tựhuy động là hai loại vốn đầu tưduy nhất có quan hệ đồng biến với
năng suất vốn biên, cho dù hệsốcủa FDI không có ý nghĩa thống kê. Thứhai, đầu tư
được phân bổthông qua ngân sách chính phủvà các khoản cho vay của các tổchức tài
chính sởhữu nhà nước là hai loại vốn (duy nhất) thểhiện mối quan hệnghịch biến rõ
rệt với năng suất vốn biên. Từnhững kết quảnày, ta kết luận rằng chính sựphân bổ
đầu tưcủa chính phủchịu trách nhiệm trước kiểu phân bổkhác thường là dòng vốn
ròng chảy đến những vùng hoạt động kém hiệu quảhơn.



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

ngân sách trong vùng. Chuỗi số liệu chu kỳ kinh tế của tỉnh, y, được tạo
ra bằng cách áp dụng phương pháp sàng lọc Hodrick và Prescott (HP) cho chuỗi số
liệu GDP địa phương.19 Biến số ngân sách, F, là tỷ số giữa tiêu dùng của chính phủ địa
phương trên GDP địa phương. Số dư eSit và eIit từ phương trình (2a) và (2b) lần lượt
được sử dụng để tính mối tương quan mới giữa tiết kiệm và đầu tư.
18 Một số tỉnh tạo thành một tỷ phần đáng kể trong tiết kiệm và đầu tư quốc gia. Do đó, chúng tui sử
dụng phần còn lại của quốc gia thay cho các giá trị tổng tiết kiệm và đầu tư quốc gia để tránh làm biến
dạng mối tương quan theo chiều hướng tăng lên.
19 Chúng tui sử dụng log(GDP tỉnh) sàng lọc theo HP (100) trừ đi log(GDP quốc gia) sàng lọc theo
HP(100).
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2004-2005
Tài chính phát triển
Bài đọc
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc
G. B. Debray & S-J Wei 13 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Tự Anh
Bảng 4a trình bày các kết quả. Mối tương quan bình quân giữa đầu tư và tiết
kiệm giảm từ 0,53 còn 0,19 sau khi kiểm soát các cú sốc quốc gia trong giai đoạn tiền
cải cách và giảm từ 0,53 còn 0,34 trong giai đoạn cải cách (dòng 2, bảng 4a). Khi các
yếu tố cụ thể theo vùng cũng được kiểm soát, mối tương quan giảm thêm nữa, lần lượt
chỉ còn 0,14 và 0,21 trong giai đoạn tiền cải cách và cải cách (dòng 3, bảng 4a).
Tuy nhiên, sự gia tăng tương quan từ thập niên 80 đến thập niên 90, được trình
bày trong kiểm định vô điều kiện trong bảng 3, vẫn tiếp tục duy trì ngay sau khi kiểm
soát các cú sốc quốc gia và các cú sốc cụ thể theo vùng (các cú sốc về chu kỳ kinh tế
và ngân sách) đối với tiết kiệm và đầu tư địa phương. Như trình bày trong dòng 3 bảng
4a, mối tương quan đầu tư-tiết kiệm địa phương là 0,04 trong thập niên 80 (cột 4, dòng
3), nhưng tăng đến 0,43 trong thập niên 90 (cột 5, dòng 3). Như vậy, vẫn còn một vấn
đề rắc rối: xem ra tình trạng manh mún thị trường vốn lại càng tệ hại hơn.
Để kiểm soát sự thiên lệch khả dĩ về tính đồng thời trong các yếu tố hồi qui,
chúng tui đưa vào mô hình các giá trị trễ một năm của các biến cụ thể theo vùng trong
phương trình 2a và 2b. Như trình bày trong dòng 4 bảng 4a, việc sử dụng các giá trị trễ
thay cho các giá trị đương thời dẫn đến những kết quả hết sức tương tự. Cuối cùng,
nhằm mục đích so sánh, cột 7 và 8 trình bày các kết quả do Iwamoto và van Wincoop
tìm thấy đối với các quận của Nhật Bản và các quốc gia OECD. Đối với các quận Nhật
Bản, các mối tương quan trở nên không có ý nghĩa thống kê một khi các biến số quốc
gia và vùng được giữ không đổi (cột 7, dòng 3). Ngược lại, mối tương quan giữa các
nền kinh tế OECD được lập điều kiện dựa trên các yếu tố toàn cầu và quốc gia là 0,28
(cột 8, dòng 3).
Cuối cùng, chúng tui tìm hiểu tác động biên của tiết kiệm địa phương đối với
đầu tư địa phương, nghĩa là, một đơn vị tiết kiệm địa phương tăng thêm sẽ đóng góp
bao nhiêu cho đầu tư địa phương. Để làm điều này, chúng tui chạy hồi qui tỷ lệ đầu tư
của tỉnh theo tỷ lệ tiết kiệm địa phương và trình bày giá trị ước lượng hệ số tỷ lệ tiết
kiệm trong bảng 4b. Các kết quả cũng tương tự với những kết quả trước đây sử dụng
mối tương quan đầu tư-tiết kiệm. Hệ số tiết kiệm địa phương có giá trị dương và có ý
nghĩa thống kê đáng kể thậm chí khi đã kiểm soát các yếu tố quốc gia và vùng. Có sự
gia tăng hệ số tiết kiệm trong thập niên 90. Do đó, không có bằng chứng gì cho thấy sự
cải thiện mức độ hội nhập thị trường vốn.
D. Sự lưu chuyển vốn trong khu vực ngân hàng
Vì khu vực tài chính của Trung Quốc bị chi phối bởi các ngân hàng, kết quả kiểm định
FH sử dụng số liệu tiền gửi và cho vay của ngân hàng có thể chứa đựng nhiều thông
tin. Chuyển giao nội bộ ngân hàng và chuyển giao giữa các ngân hàng bị hạn chế trong
thời kỳ kế hoạch tín dụng và gia tăng tầm quan trọng thập niên 90 cùng với cải cách
ngân hàng nhằm trao cho các ngân hàng sự tự chủ và trách nhiệm tài chính nhiều hơn.
Do đó, kiểm định mức ý nghĩa mối tương quan tiền gửi và cho vay có thể mang lại
một mảng bằng chứng khác về mức độ lưu chuyển vốn trong phạm vi Trung Quốc.
Bảng 5 trình bày kết quả của việc áp dụng cùng một phương pháp luận như
trên đối với số liệu tiền gửi và cho vay tại các tỉnh thành Trung Quốc cũng như tại các
quốc gia thành viên OECD nhằm mục đích so sánh. Mối tương quan vô điều kiện là
0,66 trong thập niên 80 và 0,50 trong thập niên 90, tương tự như tương quan giữa các
quốc gia thành viên OECD, lần lượt là 0,63 và 0,62 trong thập niên 80 và 90. Khi
chúng tui kiểm soát xu hướng quốc gia, mối tương quan bình quân trong phạm vi
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2004-2005
Tài chính phát triển
Bài đọc
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc
G. B. Debray & S-J Wei 14 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Tự Anh
Trung Quốc giảm từ 0,66 còn 0,30 trong thập niên 80, và tăng nhẹ trong thập niên 90.
Điều này cho thấy rằng tầm quan trọng của cấu phần quốc gia trong thập niên 80 đã
giảm khi bước sang thập niên 90. Quả thật, các cuộc cải cách được thực hiện trong
thập niên 90 trao cho ngân hàng nhiều sự tự chủ hơn đã làm giảm tầm quan trọng của
việc lập kế hoạch trung ương. Qua so sánh, chúng ta thấy cấu phần toàn cầu của các
quốc gia thành viên OECD gần như không có tác động đối với mối tương quan.
Cuối cùng, khi các yếu tố quốc gia và toàn cầu được kiểm soát, mối tương
quan giữa tiền gửi và cho vay gia tăng theo thời gian, từ 0,44 trong giai đoạn 1978-89
lên đến 0,58 trong giai đoạn 1990-2001 (dòng 3, cột 1 và 2 trong bảng 5). Sự gia tăng
này có ý nghĩa thống kê (cột 3, dòng 3 trong bảng 5), cho thấy tình trạng giảm sút lưu
thông vốn trong khu vực ngân hàng trong thập niên 90.
Nhìn chung, phát hiện về mối tương quan đồng biến (dương) và có ý nghĩa sau
khi kiểm soát các yếu tố quốc gia và các cú sốc cụ thể theo vùng cho thấy rằng: vẫn có
những rào cản đáng kể đối với sự lưu thông vốn trong phạm vi đất nước Trung Quốc.
Vì vậy, chiều hướng dòng chảy vốn trong phạm vi Trung Quốc vẫn gần giống với sự
di chuyển vốn quốc tế hơn so với sự lưu chuyển vốn nội bộ quốc gia mà người ta có
thể nhận thấy tại những quốc gia không có rào cản lưu chuyển vốn trong nước (như
Nhật Bản). Hơn nữa, chúng tui phát hiện thấy sự gia tăng đáng kể mối tương quan đầu
tư-tiết kiệm tương ứng với sự giảm sút lưu chuyển vốn trong thập niên 90. Kết quả sau
này nhất quán với những phát hiện về tình trạng sa sút trong phân bổ vốn trong thập
niên 90 (tìm đọc Cull và Xu, 2000, Park và Sehrt 2001). Điều này cũng nhất quán với
kết quả về sự gia tăng phân tán suất sinh lợi biên của vốn mà Tan và Zhang (2003)
từng nhận thấy.
IV. Có sự chia xẻ rủi ro hữu hiệu trong tiêu dùng?
Trong phần này, ta chuyển sang xem xét một khía c
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top