sinkicongchua

New Member
Download Khóa luận Chùa Bái Đính - Tiềm năng du lịch của Ninh Bình

Download Khóa luận Chùa Bái Đính - Tiềm năng du lịch của Ninh Bình miễn phí





MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Bố cục khoá luận 4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM 5
1.1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo 5
1.2. Qúa trình truyền bá và phát triển đạo Phật ở Việt Nam 7
1.3. Ý nghĩa tâm linh của Phật giáo 16
1.3.1. Không gian thiêng của Phật giáo 17
1.3.2. Biểu tượng thiêng của phật giáo 22
3.1.3. Ý niệm thiêng của phật giáo 25
1.4. Tiểu kết 28
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG VỀ QUẦN THỂ DI TÍCH CHÙA BÁI ĐÍNH VỚI KHẢ NĂNG KHAI THÁC PHỤC VỤ DU LỊCH 31
2.1. Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường 31
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp 31
2.1.2. Dự án khai thác Chùa Bái Đính. 33
2.2. Quần thể di tích Chùa Baí Đính 35
2.2.1. Vị trí địa lý 35
2.2.2. Khu chùa Baí Đính cổ 35
2.2.2.1. Nguồn gốc lịch sử 35
2.2.2.2. Danh lam thắng cảnh và những sự tích huyền thoại 37
2.2.3. Bái Đính tân tự - khu chùa Bái Đính mới 42
2.2.3.1. Trung tâm Phật giáo qua các thời “Đinh -Tiền Lê” 42
2.2.3.2. Các công trình kiến trúc 49
2.3. Khả năng khai thác và phục vụ du lịch của quần thể di tích chùa Bái Đính 60
2.3.1. Nguồn khách 60
2.3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật 61
 
2.3.3. Hiện trạng tổ chức quản lý 64
2.3.4. Môi trường tự nhiên và xã hội 65
2.3.5 . Những thuận lợi - khó khăn đối với việc khai thác, phục vụ du lịch của quần thể di tích chùa Bái Đính 68
2.3.5.1. Thuận lợi 68
2.3.5.2. Khó khăn 69
2.4. Tiểu kết 69
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP 72
3.1. Định hướng về phát triển Du lịch Ninh Bình nói chung và Chùa Bái Đính nói riêng 72
3.2. Đánh giá 74
3.2.1. Đánh giá về các giá trị văn hoá lịch sử của chùa Bái Đính 74
3.2.1.1. Gía trị lịch sử 74
3.2.1.2. Gía trị văn hoá 85
3.2.2. Đánh giá về các công trình kiến trúc. 94
3.3. Giải pháp thu hút khách du lịch 97
3.3.1. Đẩy mạnh và hoàn thiện nội dung quy hoạch, kiến trúc xây dựng. 97
3.3.2. Tăng cường quảng bá hình ảnh và nghiên cứu thị trường 98
3.3.3. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý 100
3.4. Tiểu kết 101
KẾT LUẬN 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
 
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

a Tây Phương (cõi tây phương cực lạc)...còn chùa Bái Đính (ý là tiếp nối không gian tâm linh và diễn xướng lễ hội Phật, Thần, Tiên từ ngàn xưa đã diễn ra trên mảnh đất và ngọn núi linh thiêng này).
Không gian thiêng còn biểu hiện ở thế đất lập chùa, theo Đạo giáo thì gọi là cảnh sắc. Chọn được thế đất có âm dương là thế đất tốt theo như lời của Thánh Nguyễn thì chùa Bái Đính cổ trên núi - tượng dương. Chùa mới dưới chân núi là - tượng âm, âm dương lưỡng hợp, khai minh, khai thái. Chùa Bái Đính cổ trên động núi quay hướng Bắc, chùa Bái Đính mới toạ lạc trên triền đồi Ba Rau huyền thoại phía Đông Bắc chân núi Bái Đính. Chùa toạ Nam nhìn hướng chính Bắc là Trạch Tốn. Hướng cửa các điện lớn trong chùa.. Chùa xây dựng theo thuyết phong thuỷ cổ “tiền thuỷ hậu sơn”, phía trước lấy cận minh đường là Hồ Đàm Thị, viễn minh đường là sông Hoàng Long. Núi Phường, núi Tháp, núi Hang Trai, tạo thành chữ “tâm” làm tiền án, tả thanh long là khu đồi Ba Rau, hữu bạch hổ là núi Bái Đính, xa hơn về phía Đông Nam là núi Mắt Rồng, hậu bối là núi Thung Bình. Người Việt chọn thế đất dựng chùa chẳng phải chỉ để hướng về cõi hư vô, mà còn hướng về nơi sinh sôi phát triển. Đất tốt theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền phải là đất bên trái trống không, hay có sông ngòi ao hồ bao bọc, bên phải cao dầy có hình Hoa sen, tràng phướn, lọng báu có hình Rồng, Phượng, Quy, Xà chầu bái, trước mặt có minh đường, phía sau không có núi áp kề là đất tốt.
Chùa Bái Đính mới đã chọn được thế đất “đắc địa”, “cảnh sắc có đủ: nứơc, hoả, lương, rau, cảnh không gần nhân gian mà cũng không xa nhân gian vì gần thì ồn ào, xa thì cô quạnh, cảnh có thể trú là chỗ yên nghiệp có thể dưỡng thân, nuôi tính, tâm linh sáng suốt, trường dưỡng thảnh thơi, để được dưỡng đạo ,ấy là cứu cánh” đối chiếu lại thêm một chuẩn mực hết sức trọng yếu nữa là chùa Bái Đính chọn được cảnh sắc và thế đất “đắc địa” vừa đời vừa đạo, đời ở chỗ bên trái thì trông không, theo triết học cổ phương đông “vô cực sinh thái cực” có nghĩa là vật chất từ không thành có, sông hồ ao ngòi là nước yếu tố khởi nguyên của sự sống, bên phải có Rồng, Phượng, Quy, Xà là hội đủ âm dương, điều kiện cần và đủ cho sự sống sinh sôi phát triển. Đời còn biểu hiện ở lơng thực, rau , nước, lửa để duy trì sự sống nhân gian. Đạo là ở chỗ phía trước có minh đường (nơi nước tụ lại) cũng tốt, phía sau không có núi áp kề là không có dương, hàm ý chỉ cầu âm (vô sinh). Theo quan niệm của Phật, chùa cần yên tĩnh thì phải xa dân nhưng đạo Phật cứu sinh độ thế nên cần có dân. Chùa Bái Đính vừa có dân vừa không quá gần dân để có không gian tĩnh độ.
2.2.3.2. Các công trình kiến trúc
Theo quy hoạch chùa Bái Đính mới, bao gồm cả khu vực rộng lớn gồm nhiều hạng mục công trình được gọi chung là “khu tâm linh Phật giáo Bái Đính”. Diện tích tổng thể 30.000m2 với trên 20 hạng mục công trình. Được quy hoạch cụ thể như sau: điện Tam Thế 2.053m2, điện Pháp Chủ (Thích Ca Mâu Ni) 2.000m2, điện Quan Thế Âm Bồ Tát 676m2, điện thờ 500 vị La Hán 12.000m2, các công trình phụ trợ khác 13.270m2 (công viên văn hoá và học viện Phật giáo 30.28ha, khu đón tiếp và công viên cảnh quan 15ha, khu Hồ Đàm Thị và hồ Phóng Sinh 143.7ha, khu cây xanh cách ly và bảo tồn 121.03ha. Chùa được xây dựng theo độ dốc “soi gương” cao dần theo trục thần đạo từ tam quan đến điện Tam Thế, theo kiểu “nội công ngoại quốc”, các kiến trúc chính như tam quan, gác chuông, điện thờ Phật Bà Quan Âm, điện Pháp Chủ và điện Tam Thế xây dựng theo kiểu kiến trúc ngôi chùa cổ truyền ở Việt Nam nhà 4 mái, 2 đến 3 tầng mái, các góc đao đều uốn quanh đôi phượng. Nhìn từ cố đô Hoa Lư thì khu chùa Bái Đính giống như một bức tranh thuỷ mặc lớn treo nghiêng trên nền đồi xanh thẳm. Núi Bái Đính giống như một cái đinh chốt lớn treo bức tranh tâm linh tuyệt mỹ và kỳ vĩ đó .
a , Tam Quan
Nhìn từ ngoài vào ranh giới giữa cái đời thường và chốn chùa thanh tịnh ta bắt gặp ngay đó là tam quan bao gồm 3 cửa: cửa giới giữ trọn những điều giới luật, cửa định tập trung thanh lọc tâm, cửa tuệ tu Phật phải trí tuệ, sáng suốt, hay cũng là 3 cửa: khổ, vô thường, vô ngã. Dưới con mắt của người thường thì tam quan chỉ đơn giản là 3 cửa nhưng trong giới tu hành đó chính là ranh giới giữa cõi thiêng và cõi tục, là ngưỡng cửa thiêng liêng, siêu thoát là lúc thanh thản về với cõi vĩnh hằng.
Tam quan chùa Bái Đính mới có hình dạng “lộng tàn” xây dựng theo kiểu chồng giường gồm 3 tầng mái cong mỗi tầng 4 mái , 2 tầng dưới 8 mái là bát quái. Tầng trên 4 mái và nóc là ngũ hành. Mái lợp ngói ống màu nâu sẫm, tiền bẩy, hậu bẩy, xà nách cao 16.5m, chu vi 13.85m*13.5m, tất cả bằng gỗ tứ thiết, 4 cột cái mỗi cột cao 13.85m, đường kính 0.87m nặng gần 10 tấn. Bốn cột trung mỗi cột cao 11m đường kính 0.75m, 16 cột con xung quanh, mỗi cột cao 5m đường kính 0.65m. Tất cả các cột đều kê trên tảng đá vuông theo kích cỡ từ cột cái, cột trung cột con với kích thước cạnh thứ tự 1.4m, 1.2m, 0.9m. Đầu đao của mái tam quan cong như hình đuôi chim phượng. Nóc tam quan là 2 đầu kìm chầu mặt nguyệt, tầng ba tam quan, gian giữa phía trước và sau đều chạm thông phong phù điêu lớn, xung quanh là hạ vân mây vần vũ, giữa bánh xe pháp luân (biểu tượng cho sự chuyển vần không ngừng của Phật pháp cũng như là của trời đất theo triết lý đạo Phật. Các cánh của đều làm bằng gỗ lim, mỗi cửa 4 cánh, đều được chạm “thượng song hỷ kép - thông phong- hạ bản”.
Nhìn vào hai gian phụ của tam quan là tượng 2 ông hộ pháp bằng đồng cao 5.5m, nặng 12 tấn, tượng 8 vị bát bộ Kim Cương (8 võ sỹ thiên thần bảo vệ Phật pháp có tâm can sáng- trong- cứng rắn như kim cương, cầm truỳ kim cương, được đúc bằng đồng nặng tới 8 tấn, bố trí đứng ngay ở cổng tam quan. Phía sau dãy tam quan là 2 dãy toà nhà gỗ song song nối liền nhà hành lang La Hán, theo lối kiến trúc cổ, mỗi toà 16 gian, dài 70m, mỗi gian rộng 4.5m.
Để hoàn thiện được tam quan người ta đã phải sử dụng đến 550 tấn gỗ, chỉ bấy nhiêu thôi ta đã thấy được sự hoành tráng đồ sộ của nó. Chưa có một ngôi chùa nào có được một tam quan bề thế như vậy, phải chăng chủ ý của nguời thiết kế muốn tạo ấn tượng mạnh với các đấng tu hành.
b, Tháp Chuông
Sau Tam quan là tháp chuông. Tháp chuông ở đây được xây dựng bắng bê tông cốt thép gỉa gỗ hình dáng phỏng theo các tháp chuông của ngôi chùa cổ ở đồng bằng Bắc Bộ, trong ngôi chùa nội công ngoại quốc thì biểu tượng thiêng liêng của đức Phật đặc biệt chú ý đó là sự vươn cao của gác chuông. Theo quan niệm của nhà Phật, gác chuông chùa càng ngân càng vang xa bao nhiêu thì lời răn dạy của đức Phật càng phổ độ đến chúng sinh càng được thấm nhuần bấy nhiêu. Khi tiếng chuông ngân lên 108 tiếng, tức là xua đi 108 điều phiền não trong cuộc đời.
Tháp chuông chùa Bái Đính có hình bát giác, có ba tầng mái cong, thu dần lên đỉnh tháp, tổng cộng 24 mái...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top