Download Đề tài Những vấn đề về chuyển giao giá trị của FDI tại Việt Nam

Download Đề tài Những vấn đề về chuyển giao giá trị của FDI tại Việt Nam miễn phí





Khi doanh nghiệp nâng giá trị lên 1.000 USD với thời gian khấu hao 10 năm thì mỗi năm sẽ đưa vào chi phí 100 USD và như thế có nghĩa là thu nhập chịu thuế giảm 100 USD; và với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% như hiện nay, Nhà nước sẽ thấp thu 25 USD. Đến giai đoạn hoạt động, việc nâng giá vật tư, phụ tùng đầu vào cũng kéo theo ngân sách bị thấp thu rất nhiều loại thuế. Chẳng hạn, khi doanh nghiệp nâng giá lên 100.000 USD thì công ty mẹ không phải nộp một đồng thuế GTGT nào (vì là hàng xuất khẩu), đồng thời được khấu trừ thuế đầu vào. Còn công ty con, phải nộp thuế với hàng nhập khẩu nhưng bù lại, được khấu trừ khi bán sản phẩm.



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

Chủ đề: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHUYỂN GIAO GIÁ CỦA FDI TẠI VIỆT NAM. I. Chuyển giá là gì?
1. Khái niệm chuyển giá:
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations Company) trên toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
2. Bản chất của chuyển giá:
- Chuyển giá chỉ có ‎ ý nghĩa với những giao dịch giữa các chủ thể có quan hệ liên kết với nhau.
- Việc chuyển giá (transfer pricing) bằng cách định giá quá cao hay quá thấp trong hoạt động thương mại giữa nội bộ công ty của các công ty đa quốc gia nhằm chuyển thu nhập và lợi nhuận từ nước có thuế cao sang nước có thuế thấp. Như thế, vô hình trung, chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế do xác định không chính xác nghĩa vụ thuế, dẫn đến bất bình đẳng về lợi ích, tạo ra sự cách biệt trong ưu thế cạnh tranh.
Như vậy yêu cầu đặt ra là xác định lại giá giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết nhằm đưa giá giao dịch liên kết về đúng với giá thị trường.
3. Các phương pháp định giá thị trường:
- Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập: dựa vào đơn giá sản phẩm được vận dụng trong trường hợp giao dịch độc lập có điều kiện tương đương với giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá bán lại: áp dụng trong trường hợp không có giao dịch mua tương đương, thuộc khâu cung ứng hay có thêm giai đoạn gia công, chế biến, lắp ráp... làm gia tăng giá trị hàng hóa, nên phải sử dụng giá bán lại của sản phẩm do cơ sở kinh doanh bán cho bên độc lập để xác định giá mua vào của giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá vốn cộng lãi: được lựa chọn khi giao dịch liên kết thuộc khâu sản xuất khép kín để bán cho bên liên kết hay cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết. Phương pháp này xác định giá dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm để xác định giá bán ra của sản phẩm đó cho bên liên kết.
- Phương pháp so sánh lợi nhuận: để thực hiện phương pháp này phải dựa trên tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong giao dịch độc lập được chọn. Phương pháp này không cho ra kết quả về giá mà tính ra được thu nhập thuần trước thuế là cơ sở tính thuế TNDN. Đây được xem là phương pháp mở rộng của phương pháp giá bán lại và giá vốn cộng lãi, nên có thể áp dụng đối chiếu trong trường hợp có những điều kiện tương tự.
- Phương pháp tách lợi nhuận: được áp dụng trong trường hợp nhiều bên liên kết cùng thực hiện một giao dịch liên kết tổng hợp, chẳng hạn như cùng tham gia nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, hay sản phẩm là tài sản vô hình độc quyền, kinh doanh chuyển tiếp từ khâu đầu đến khâu cuối gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Việc tách lợi nhuận của từng bên liên kết trong giao dịch dựa trên cách mà các bên độc lập thực hiện phân chia lợi nhuận trong các giao dịch độc lập tương đương. Trường hợp do tính đặc thù hay duy nhất của giao dịch liên kết mà không có có giao dịch độc lập tương đương để chọn một trong các phương pháp trên so sánh thì có thể sử dụng biện pháp tổng hợp (như mở rộng phạm vi lựa chọn sang phân ngành khác, xác định biên độ giá thị trường thích hợp bằng các phương pháp tổng hợp...) hay vận dụng các số liệu giữa kỳ (để tính mức giá sản phẩm, tỷ suất lợi nhuận...).
II. Chuyển giao giá của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam:
Cũng như nhiều doanh nghiệp FDI khác, những doanh nghiệp FDI ở Việt Nam cũng sử dụng các hình thức chuyển giao giá để chuyển lợi nhuận về công ty mẹ nhằm trốn thực hiện những nghĩa vụ thuế tại Việt Nam.
Với các doanh II nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tình trạng trốn thuế lại bằng những hình thức rất tinh vi được gọi là “chuyển giá.” Chuyện này thường xảy ra trong các công ty con đặt tại Việt Nam và công ty mẹ đặt tại nước ngoài.  Các cuộc điều tra đã cho thấy, khi nhập hàng vào gia công, các công ty con thường khai vống lên rất cao giá thành nguyên liệu nhập của công ty mẹ và khai thấp đi giá bán hàng khi xuất; kê khai giá nhập thiết bị cao chót vót để rồi hạch toán khấu hao lớn, làm tăng chi phí giá thành sản phẩm, dẫn đến việc trong sổ sách chứng từ kế toán họ triền miên khai thua lỗ. Đó thực chất là hình thức chuyển giá để trốn thuế bằng cách tính nguyên liệu đầu vào các doanh nghiệp nhập từ công ty mẹ với giá cao ngất ngưởng. Trong khi hàng đầu ra xuất sang các nước có thuế suất bằng 0% hay thuế suất thấp nên danh nghĩa theo báo cáo là lỗ công ty con, nhưng lại lãi cực lớn ở công ty mẹ. Những doanh nghiệp FDI kê khai lỗ cũng thường đến từ các quốc gia mà ở đó mức thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp thấp hơn nhiều lần so với mức phải đóng ở Việt Nam. Cụ thể, mức thuế này ở Việt Nam là 25%, trong khi ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác chỉ khoảng mức 10% hay thậm chí bằng 0%. 
1. cách chuyển giá của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam:
Trốn thuế qua chuyển giá có thể được thực hiện một cách bài bản ngay từ giai đoạn đầu tư thông qua việc tính giá trị công nghệ, thương hiệu... (vốn vô hình) cao. Phần vốn góp cao lên cùng tỉ lệ góp vốn cao, làm cho tỷ lệ lợi nhuận được chia cao hơn nhiều so với vốn thực. Chuyển giá còn được thực hiện bằng cách tăng chi phí khấu hao (nghĩa là lợi nhuận giảm).
Mua cao bán thấp
Các doanh nghiệp FDI kê giá nguyên liệu đầu vào rất cao, đồng thời tìm mọi cách khai tăng chi phí quảng cáo, khuyến mãi nhằm triệt tiêu lợi nhuận. So với các DN trong nước cùng ngành nghề có thể thấy chi phí sản xuất của DN FDI thường cao bất thường. Để có thể biến lãi thành lỗ thông qua hình thức chuyển giá, các DN FDI không thể làm riêng lẻ mà hoạt...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top